Trong bất kỳ xét nghiệm
tầm soát nào, đều có khả năng xảy ra cái gọi là “chẩn đoán quá tay” -
tìm ra cái gì đó giông giống ung thư nhưng hóa ra không phải, hoặc ung
thư quá nhỏ và phát triển rất chậm đến mức sẽ không bao giờ gây ra vấn
đề gì.
Trong những trường hợp
này, bệnh nhân có thể bị sinh thiết, phẫu thuật, chiếu xạ hoặc dùng
thuốc, chẳng những không mang lại lợi ích gì mà còn có thể gây ra tác
dụng phụ, gọi là “điều trị quá tay”.
“Thông thường khi trao
đổi với bác sĩ, bạn sẽ chỉ được nghe nói về lợi ích”, Odette Wegwarth,
trưởng nhóm nghiên cứu tại Viện Phát triển con người Max Planck, Berlin
(Đức) cho biết. “Không ai đặt câu hỏi là liệu có tác hại gì tiềm ẩn hay
không”.
Khả năng chẩn đoán và điều trị quá tay thay đổi tùy theo xét nghiệm tầm soát và không phải lúc nào cũng có thể biết được.
Với xét nghiệm PSA phát
hiện ung thư tuyến tiền liệt và chụp nhũ ảnh để phát hiện ung thư vú,
cứ mỗi người được cứu sống thì lại có 10 hoặc nhiều hơn số trường hợp bị
chẩn đoán quá tay.
Wegwarth và đồng nghiệp
đã khảo sát 317 người Mỹ ở độ tuổi 50 và 60. Tất cả những người này đều
đã từng được bác sĩ mời thực hiện tầm soát ung thư. Không ai trong số
này bị chẩn đoán ung thư.
Chỉ có 30 người, chưa
đến 1/10, cho biết bác sĩ của họ có đặt ra khả năng chẩn đoán và điều
trị quá tay khi nói về việc tầm soát. Nhưng 80% nói rằng họ muốn được
nghe về những tác hại tiềm ẩn này.
Có thể một số người
trong nghiên cứu đã được nghe nói về “chẩn đoán quá tay”, nhưng họ không
nhớ hoặc bác sĩ đã nói quá cao so với tầm hiểu biết của họ. Nhưng rõ
ràng là nhiều bác sĩ không hề đề cập đến những nguy cơ của việc tầm
soát.
“Chính bản thân nhiều
bác sỹ cũng không nhận thức được đầy đủ về chẩn đoán quá mức, cũng như
không biết về mức độ hoặc không thể định lượng được nguy cơ. Hoặc cũng
có thể các thấy thuốc ngại nói về chủ đề này vì nó sẽ kéo dài thời gian
thăm khám, cũng như nghĩ rằng bệnh nhân không thể hiểu được”, David
Howard, một nhà nghiên cứu chính sách y tế tại Trường Đại học Emory ở Atlanta (Mỹ) cho biết.
Theo kết quả nghiên
cứu đăng trên tạp chí JAMA Internal Medicine, phần lớn những người được
khảo sát cho biết họ sẽ tiếp tục làm các xét nghiệm kiểm tra mà họ đã
làm cho dù biết rằng sẽ có 10 người bị điều trị quá tay để cứu được một
người. Nhưng 69% sẽ không bắt đầu làm xét nghiệm tầm soát mới có tỷ lệ
1/10 như vậy.
Wegwarth cho rằng mọi
người thường có “sự gắn bó về cảm xúc” với những xét nghiệm tầm soát mà
họ vẫn làm thường xuyên”. Tuy nhiên, y học luôn có cả mặt phải và mặt
trái.
Lời khuyên
được các nhà khoa học đưa ra là mọi người nên tự trang bị thông tin cho
mình và trao đổi thẳng thắn với bác sĩ về những vấn đề còn chưa rõ.
Thùy Linh
Theo asiaone