Kinh nghiệm từ một số nước
Thụy Điển
Cơ quan quản lý thuế Thụy Điển đã triển khai áp dụng 4 mô hình chiến
lược kiểm toán khác nhau: (1) Chiến lược “Bắt giữ được các vụ trốn lậu
thuế lớn”; (2) Chiến lược “ngăn chặn các trường hợp trốn thuế mới”; (3)
Chiến lược “Tạo hiệu quả ngăn ngừa cá nhân tốt hơn thông qua kiểm toán”;
(4) Chiến lược “Tạo hiệu quả ngăn ngừa chung tốt hơn bằng cách kiểm
toán các lĩnh vực “phù hợp”.
Cụ thể, tại chiến lược 1 “bắt giữ được các vụ trốn lậu thuế lớn”, tức
là bắt giữ được các trường hợp trốn thuế với số tiền lớn. Chiến lược
này không được triển khai thực hiện thường xuyên, mà được chuẩn bị kỹ
lưỡng, có khi vài năm mới bắt được -2 vụ vi phạm trốn thuế với số tiền
lớn. Để thực hiện chiến lược này đạt hiệu quả cao, hàng năm nước này
phải huy động một đội ngũ chuyên gia tinh nhuệ cùng tham gia triển khai
thực hiện nhiệm vụ.
Chiến lược thứ hai là “ngăn chặn các trường hợp trốn thuế mới” vi
phạm, nghĩa là những trường hợp doanh nghiệp (DN), tổ chức, cá nhân mới
vi phạm lần đầu cần được kiểm toán kể cả khi lượng trốn thuế ít.
Chiến lược thứ ba là “tạo hiệu quả ngăn ngừa cá nhân tốt hơn thông
qua kiểm toán”. Điều này có nghĩa là những đối tượng nộp thuế đã được
kiểm toán trong quá khứ khi phát hiện có hành vi trốn thuế, cần phải
được kiểm toán lại. Để triển khai chiến lược này cần sự phối hợp với các
đối tượng nộp thuế. Ý tưởng này xuất phát từ logic cho rằng một đối
tượng nộp thuế đã được kiểm toán sẽ dễ thay đổi hành vi của mình hơn nếu
biết rằng mỗi lần bị phát hiện sẽ dẫn tới nguy cơ bị kiểm toán lớn hơn
trong tương lai.
Chiến lược thứ tư là để “tạo hiệu quả ngăn ngừa chung tốt hơn bằng
cách kiểm toán các lĩnh vực “phù hợp” theo người dân”. Ví dụ: Xác định
các đối tượng nộp thuế đang trốn thuế trong khi lại tạo ra phúc lợi xã
hội. Số vụ kiểm toán không cần lớn nhưng cần tập trung vào các khu vực
mà người dân cho rằng việc trốn thuế là không công bằng và tác động tiêu
cực đến lòng tin của người dân, DN vào cơ quan thuế.
Bên cạnh các chiến lược kiểm toán của cơ quan quản lý thuế, Thụy Điển
còn triển khai thực hiện biện pháp gửi thư cho đối tượng nộp thuế. Mục
đích của những bức thư này là nhằm thông báo cho đối tượng nộp thuế nắm
bắt được những văn bản chính sách mới hoặc nhận được thông báo có thể
trong diện bị cơ quan thuế kiểm toán. Quan trọng hơn là, những bức thứ
này còn tác động đến hành vi của các đối tượng nộp thuế khiến họ khai
báo mức thu nhập với cơ quan thuế chính xác hơn.
Italia
Không giống với biện pháp quản lý rủi ro trong quản lý thuế của Thụy
Điển, Italia đã tập trung vào phân tích rủi ro đối với mã số thuế giá
trị gia tăng (GTGT) của các đối tượng nộp thuế mới. Phòng Nghiên cứu và
phân tích của Cơ quan thuế Italia đã triển khai thực hiện ứng dụng phần
mềm quản lý đối tượng nộp thuế để tránh tình trạng gian lận thuế GTGT.
Phần mềm này sẽ tự động xử lý các dữ liệu cá nhân, thông tin về thu nhập
và tài sản của các đối tượng nộp thuế hoặc trên danh nghĩa cá nhân hoặc
đại diện cho một công ty, các đối tượng này phải có một mã số thuế GTGT
mới.
Tất cả các mã số thuế GTGT đều được phân tích chứ không chỉ riêng
những trường hợp liên quan tới lĩnh vực hoạt động có rủi ro. Căn cứ vào
các thông tin do cơ quan xử lý gian lận thuế GTGT nội địa cung cấp, mỗi
thông tin được chấm một điểm số đánh giá rủi ro. Một số nhân tố liên
quan tới mã số thuế GTGT mới (ví dụ: xác minh giữa địa điểm kinh doanh
và nơi ở của chủ DN/người đại diện, trong vòng 3 năm gần nhất thay đổi
nơi cư trú nhiều hơn 2 lần…). Một số nhân tố lại chỉ ra mã số thuế GTGT
đã có trước đó (ví dụ các đối tượng nộp thuế GTGT, các khoản hoàn thuế
GTGT, không nộp thuế GTGT trong vòng 5 năm gần nhất…). Điểm số rủi ro
cuối cùng, được tính từ tổng điểm của 16 nhân tố rủi ro được phân cho
đối tượng nộp thuế và là một chỉ số rủi ro quan trọng.
Kết thúc chu trình, ứng dụng này sẽ đưa ra một danh sách gồm toàn bộ
các mã số thuế GTGT mới của đối tượng nộp thuế bằng cách làm giảm điểm
số rủi ro. Có thể lựa chọn mã số thuế GTGT bằng cách sử dụng các biến
số: (i) lãnh thổ (quốc gia, khu vực, cơ quan thuế nội địa); hoạt động
(một hoạt động cụ thể, toàn bộ lĩnh vực...); khoảng thời gian (1 năm,
nửa năm, 1 quý, 1 tháng).
Thông qua việc sử dụng phần mềm này, Italia đã phát hiện ra các
trường hợp khả nghi trước khi tiến hành bất kỳ hành động kiểm soát nào.
Ứng dụng phần mềm này là công cụ nghiên cứu phân tích dành cho các cơ
quan thuế ở địa phương, các cơ quan trong khu vực có trách nhiệm kiểm
soát, điều phối và đánh giá các kết quả phân tích từ chương trình này.
Hà Lan
Hà Lan liên quan đến mức độ tuân thủ của đối tượng nộp thuế, rủi ro
về tài chính và tầm quan trọng về tài chính được chia thành 3 cấp độ
“cao”, “trung bình” và “thấp”. 9 loại đã được hoàn tất với hai trường
hợp đặc biệt: DN mới thành lập (biết quá ít thông tin để có thể phân
tích và phân loại chính xác) và DN đang bị truy tố (có yếu tố gian lận).
Hiện nay, Italia đã xác định được 11 mức độ quan tâm khác nhau dựa trên
các tiêu chí khách quan.
Tất cả các công ty, DN lớn ở nước này đều được phân loại xếp hạng với
mức độ quan tâm khác nhau. Việc phân loại rủi ro tài chính dựa trên 13
tiêu chí, bao gồm:
1. Năm DN thành lập.
2. Rủi ro khu vực.
3. Sự phức tạp về thuế có liên quan tới số lượng công ty đang tồn tại.
4. Việc thu thuế (thuế thu nhập và thuế DN). Tỷ lệ phần trăm thu nhập
khai báo và mức thuế DN phải nộp được thu theo số tiền ấn định tạm thời
ngay trong năm nộp thuế.
5. Định kỳ khai báo thu nhập đóng thuế trong 12 tháng gần nhất.
6. Chính thức ấn định thuế sau năm cuối cùng.
7. Phụ thu thêm thuế GTGT trong năm dương lịch cuối cùng.
8. Chất lượng quản lý.
9. Hiệu chỉnh những số liệu quan trọng về thu nhập chịu thuế trong vòng 5 năm gần nhất.
10. Hiệu chỉnh về kỹ thuật – tài chính trong vòng 5 năm cuối.
11. Gian lận.
12. Kỳ hạn nộp thuế (không liên quan đến nguồn lực).
13. Hội đàm sơ bộ.
Với các tiêu chí trên, mỗi tiêu chí ghi được 1 điểm. Điểm tổng sẽ
giúp đánh giá xếp loại DN có mức rủi ro thấp, trung bình hay cao. Điểm
số của DN càng lớn thì xếp ở mức cao. Tầm quan trọng của tài chính được
căn cứ trên khai báo hàng năm về 4 loại thuế chính: thuế lợi tức của
công ty; thuế thu nhập; thuế GTGT; thuế tiền lương. Sau khi tổng hợp các
tờ khai sẽ đánh giá DN có tầm quan trọng thấp, trung bình hay cao. Kết
quả càng cao thì được đánh giá càng cao...
Bài học cho Việt Nam
Qua nghiên cứu kinh nghiệm quản lý rủi ro trong quản lý thuế của một số nước ở trên có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm:
Thứ nhất, về các kế hoạch kiểm toán thuế: Thực tế khi áp
dụng vào Việt Nam, cách gọi của chúng ta đối với các “chiến lược” này
thường là các “kế hoạch” hoặc “phương thức” thực hiện cho đơn giản và dễ
hiểu không nhầm lẫn. Chúng ta nghiên cứu có thể lần lượt đều áp dụng
các kế hoạch này hoặc linh hoạt tùy vào thời điểm, khu vực, lĩnh vực
hoặc đối tượng quản lý thuế mà áp dụng cho hiệu quả.
Thứ hai, việc thông báo các nội dung về chính sách và kết
quả các hoạt động kiểm tra của cơ quan quản lý thuế đã được áp dụng tại
Việt Nam, tuy nhiên chúng ta chưa làm bài bản theo cụm đối tượng, khu
vực mà còn vụ việc nhỏ lẻ hoặc cho số đông bằng các hoạt động chung như
hội thảo, hội nghị DN, khách hàng ở từng khu vực, đơn vị hành chính các
cấp; Để phục vụ, “chăm sóc” từng đối tượng cụ thể một cách khoa học,
minh bạch, bài bản thì chưa làm được. Việc gửi thư theo cách làm của
Thụy Điển chưa được thực hiện ở Việt Nam, tới đây nên áp dụng vào thực
tiễn ở nước ta sẽ có hiệu quả tốt.
Thứ ba, áp dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý
lĩnh vực quản lý nguồn thu là một yêu cầu cải cách, hiện đại hóa công
tác quản lý thuế đã được Quốc hội, Chính phủ và Bộ Tài chính khẳng định.
Tuy nhiên, cần tiếp tục đi sâu và đưa công nghệ vào từng nội dung cụ
thể của công tác quản lý, mà ở đây là các mã số thuế GTGT.
Thuế GTGT là một sắc thuế quan trọng và nguồn thu lớn của ngân sách,
do vậy, cần tập trung nguồn lực và nghiên cứu tiếp thu công nghệ quản lý
của các nước tiên tiến trên thế giới là hướng đi đúng và hiệu quả của
cơ quan quản lý thuế trong giai đoạn hiện nay.
Thứ tư, cơ quan quản lý thuế phải luôn chủ động và linh hoạt
với việc áp dụng công nghệ thông tin để xử lý mọi thông tin có liên
quan đến người nộp thuế xuất hiện được đánh giá là có mức độ rủi ro từ
nhỏ đến lớn trong một thời gian hạn định được theo dõi cập nhật trên hệ
thống. Nguyên tắc quản lý thuế được đưa ra là không thể để việc “mất bò
mới lo làm chuồng”.
Tất cả các thông tin liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến người nộp
thuế và các mối quan hệ nhằng nhịt, đan xen đều được thu thập, cập nhật
và phân tích sớm nhất để cơ quan quản lý thuế các cấp có định hướng chủ
động và sớm có các biện pháp quản lý hiệu quả và kịp thời.
Thứ năm, trong công tác quản lý thuế trước đây của cơ quan
Hải quan và cơ quan thuế Việt Nam chúng ta đều áp dụng cách quản lý hành
chính, mệnh lệnh và trên cơ sở thu thập tìm tòi những dấu hiệu, chứng
cứ vi phạm của người nộp thuế để xử lý vấn đề.
Tuy nhiên, với số lượng khoảng hơn 500 ngàn doanh nghiệp có mã số
thuế, trong đó chiếm đến hơn 115 ngàn doanh nghiệp có hoạt động kinh
doanh xuất nhập khẩu thì không có một cơ quan quản lý thuế nào có đủ
nguồn lực và kỹ thuật để quản lý, theo dõi một cách thủ công để phát
hiện ra các lỗi vi phạm của người nộp thuế để bắt lỗi. do vậy, nguyên
tắc quản lý hiện đại và khoa học là phải áp dụng quản lý rủi ro trong
quản lý thuế với các kỹ thuật chuyên môn nghiệp vụ đi kèm là thực hiện
quản lý tuân thủ doanh nghiệp trên cơ sở phân tích, đánh giá và xếp hạng
để quản lý cho khoa học và hiệu quả như cơ quan quản lý Thuế Italia
đang làm.
Ngoài ra, hiện nay, ngành Tài chính Việt Nam đang chỉ đạo cơ quan
Thuế và cơ quan Hải quan xây dựng các cơ sở dữ liệu về rủi ro ở mỗi
ngành. Thực tế ngành Hải quan đã có chương trình quản lý rủi ro được gọi
tên là RiskMan đang ở phiên bản 2.0 được xây dựng và ứng dụng từ năm
2006. Chương trình này được các chuyên gia JICA Nhật bản đánh giá rất
cao, tính thực tế và hiệu quả mang lại cho công tác quản lý của ngành
Hải quan đã được hàng chục ngàn doanh nghiệp biết đến khi áp dụng thực
hiện hải quan điện tử với kết quả giảm chi phí thời gian và thủ tục cho
doanh nghiệp.
Tuy nhiên, về tầm nhìn xa của kế hoạch đến 2030 thì cần phải xây dựng
cơ sở dữ liệu về quản lý rủi ro của ngành Tài chính trong đó tích hợp
dữ liệu từ cơ quan Thuế, cơ qnan hải quan và các đơn vị chức năng thuộc
Bộ Tài chính có liên quan đến phân tích, đánh giá về rủi ro tài chính,
ngân sách nói chung. Và đó cũng chính là cơ sở dữ liệu quốc gia về quản
lý rủi ro trong lĩnh vực tài chính.
ThS. BÙI THÁI QUANG - Tổng cục Hải quan
Bài đăng trên Tạp chí Tài chính số 10 kỳ 2-2015