Nhìn từ một số nước ASEAN
Hiện nay, nhiều nước trên thế giới đã có luật về chống chuyển giá và
có hội đồng quốc gia về quản lý chống chuyển giá để ngăn chặn các hành
vi chuyển giá. Tại khu vực Đông Nam Á, một số nước đã xây dựng và thực
hiện Luật Chống chuyển giá từ nhiều năm nay. Những quy định trong Luật
chống chuyển giá của một số nước đã bám sát được các quy định chung của
Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) và áp dụng cho cả công ty
trong nước và nước ngoài phù hợp với đặc điểm riêng. Cụ thể:
Tại Malaysia: Quốc gia này đã luật hóa bằng các quy định cụ
thể về việc ban hành hai tờ khai về chuyển giá, một tờ khai dành cho các
doanh nghiệp (DN) nước ngoài và một tờ khai dành cho các DN trong nước.
Hai tờ khai này được phát cho những đối tượng nộp thuế được chọn, sau
khi khai đầy đủ, các DN này sẽ nộp tờ khai lại cho Cục Thuế Malaysia.
Sau đó, Cục Thuế quốc gia này sẽ xem xét, rà soát liệu có nên thanh tra
DN này hay không. Điểm nhấn đáng quan tâm nhất trong quy định này là Cục
Thuế Malaysia muốn thấy ở tờ khai này là cấu trúc của tập đoàn, những
chi phí mà công ty phải trả như chi phí bản quyền, chi phí quản lý DN,
những bằng chứng chứng minh DN có hưởng những dịch vụ đó và trả đúng với
những dịch vụ mà DN đã hưởng hay không. Cơ quan thuế ở Malaysia sẽ dùng
các tờ khai này để thanh tra thuế và thanh tra chuyển giá đối với các
công ty.
Ngoài ra, phương thức áp dụng, xác định các DN có thực hiện chuyển
giá hay không được Malaysia áp dụng là so sánh giá thị trường tự do,
phương pháp dựa vào giá bán ra, phương pháp cộng chi phí vào giá vốn,
phương pháp phân chia lợi nhuận, phương pháp lợi tức thuận từ giao dịch.
Cùng với đó, Malaysia không có quy định riêng về chế tài trong luật mà
tuân thủ mức phạt dao động từ 100-300% số thuế bị phát hiện gian lận.
Đồng thời, Malaysia cũng công khai danh tính những DN thực hiện chuyển
giá chiếm đoạt tiền thuế nhà nước.
Tại Thái Lan: Luật Chống chuyển giá được ban hành và thực
hiện từ hơn 10 năm nay. Theo đó, cơ quan thuế quốc gia này đã thiết lập
được một cơ sở dữ liệu khá đầy đủ, có thể dễ dàng đối chiếu được DN nào
giao dịch theo hoặc không theo giá thị trường. Để đối phó với hiện tượng
chuyển giá, ngay từ năm 2004, Thái Lan đã thiết lập cơ sở dữ liệu thông
tin về các công ty đang là mục tiêu để tiến hành kiểm tra sổ sách và
điều tra, cụ thể là các công ty có các chỉ số “rủi ro cao”, như là thua
lỗ liên tục hơn hai năm; tổng số lợi nhuận âm; không nộp thuế trong một
giai đoạn; có các giao dịch đáng kể của cùng nhóm liên quan và khả năng
sinh lãi thấp so với các đối thủ cạnh tranh.
Để ngăn chặn, xử lý tình trạng chuyển giá, cơ quan thuế của Thái Lan
tập trung vào các chứng cứ giá cả chính xác, tất cả cần hợp lý để chứng
tỏ sự minh bạch, tài liệu cập nhật để chỉ ra cơ cấu và mối liên hệ của
nhóm các công ty, bao gồm tính chất của mỗi một kinh doanh, ngân sách
của nó, kế hoạch kinh doanh và các chiến lược tài chính. Cùng với đó là
tài liệu giải thích doanh số của công ty, kết quả hoạt động, các giao
dịch quốc tế của công ty với các tổ chức kinh doanh liên kết. Các chính
sách giá, khả năng sinh lãi của mỗi một sản phẩm và thông tin thị
trường, sự đóng góp lợi nhuận của mỗi bên nhận các chức năng thực hiện,
các tài sản đã sử dụng và sự rủi ro tất cả phải được đưa vào tính toán
và có khả năng sử dụng cho việc khảo sát tường tận. Càng phát triển, các
nền kinh tế càng có sự phụ thuộc và vấn đề chuyển giá càng trở nên dễ
dàng hơn. Cùng với đó, khó khăn trong việc điều tra chuyển giá cũng ngày
càng lớn hơn, cách thức tiến hành điều tra để đi tới một kết luận thỏa
đáng đòi hỏi có sự chuẩn bị nghiêm túc và sự hợp tác chặt chẽ giữa các
quốc gia.
Đặc biệt, cơ quan thuế ở Thái Lan thanh tra rất kỹ, kiểm tra kỹ các
chi phí trong nội bộ tập đoàn chẳng hạn như chi phí quản lý, chi phí bản
quyền. Họ không chỉ xem công ty có hợp đồng nghiêm túc hoặc hóa đơn hợp
lệ, mà còn nhìn vào bản chất giao dịch xem có giao dịch đó diễn ra hay
không hoặc đối với chi phí quản lý chung thì đó là chi phí thật sự hay
chi phí chia ra cho những người nắm giữ hợp đồng đó. Mặt khác, Cục Thuế
Thái Lan thường xem xét những công ty được ưu đãi về thuế và so sánh lợi
nhuận của các công ty này với những công ty không được ưu đãi về thuế
xem lợi nhuận của 2 nhóm công ty này có giống nhau hay không và thực
hiện bước thanh tra tiếp theo.
Tại Singapore: Là quốc gia có nhiều tập đoàn lớn của nước
ngoài hoạt động nhưng Singapore lại không có luật riêng để quản lý hoạt
động chuyển giá. Các quy định liên quan đến hoạt động chuyển giá nằm
trong luật chung về thuế. Những hướng dẫn về chuyển giá của Singapore
dựa trên và thống nhất với hướng dẫn của Tổ chức Hợp tác Kinh tế và Phát
triển (OECD). Tuy nhiên, Singapore hầu như không ưu tiên cho phương
pháp nào trong số các phương pháp được hướng dẫn của OECD. Phương pháp
xác định giá chuyển giao nào tạo ra kết quả tin cậy nhất sẽ được lựa
chọn và áp dụng tùy từng trường hợp cụ thể.
Bên cạnh đó, Singapore cũng không quy định mức phạt cụ thể dành riêng
cho hành vi chuyển giá. Mức phạt chung cho các vi phạm về thuế nằm từ
khoảng 100% đến 400% khoản thuế phải trả. Một điểm đáng lưu ý trong thực
tế là khi một vụ điều tra về chuyển giá được tiến hành, án phạt gần như
sẽ được áp dụng nếu đơn vị đóng thuế không có hoặc không đầy đủ các tài
liệu liên quan đến việc điều tra chuyển giá. Luật thuế của Singapore
cũng như hướng dẫn về vấn đề chuyển giá không đưa ra một yêu cầu về việc
phải chuẩn bị xuất trình các tài liệu về chuyển giá. Các tài liệu tối
thiểu cần có khi kiểm tra về vấn đề chuyển giá bao gồm: Mô tả về các bên
liên quan trong các chuyển nhượng, bao gồm giá trị mua bán và các điều
khoản ký kết; Một phân tích sâu trong đó mô tả những yếu tố chính liên
quan đến quá trình mua bán như chức năng, sự phát triển của tài sản,
việc sử dụng tài sản và các rủi ro được dự báo; Bảng đánh giá của đơn vị
đóng thuế về những rủi ro về thuế của đơn vị.
Việc ban hành hướng dẫn về chuyển giá của Singapore chủ yếu nhằm nâng
cao nhận thức và hiểu biết của DN về vấn đề chuyển giá. Các thỏa thuận
về giá đơn phương, song phương hay đa phương đều được chấp nhận ở
Singapore. Tuy nhiên, đối với các thỏa thuận song phương và đa phương
thì phải có thỏa thuận thuế kép giữa Singapore và quốc gia liên quan.
Tại Indonesia: Phương pháp áp dụng biện pháp ngăn chặn hoạt
động chuyển giá căn bản nhất tại quốc gia này là so sánh giá thị trường
tự do, phương pháp dựa vào giá bán ra, phương pháp cộng chi phí vào giá
vốn và các phương pháp khác do OECD hướng dẫn (thông thường là biện pháp
dựa trên lợi nhuận). Mặt khác, Indonesia áp dụng mức phạt từ 2% đến 48%
một tháng tính trên số thuế nộp thiếu bị phát hiện do gian lận qua
chuyển giá. Đồng thời, điều chỉnh thuế thu nhập DN theo tương quan với
các nước đối thủ cạnh tranh chính, nâng cao tính dễ dự đoán của chính
sách thuế, công khai chính sách thuế trong những năm tiếp theo, áp dụng
cơ chế tạo thuận lợi cho việc định giá trước. Thu hẹp các ưu đãi về
thuế, hoàn thiện hệ thống thông tin, dữ liệu về người, DN nộp thuế để từ
đó theo dõi sát sao những thay đổi về doanh thu, lợi nhuận của các DN.
Bài học chung và kinh nghiệm riêng cho Việt Nam
Bài học chung
Để hạn chế tình trạng chuyển giá, chiếm đoạt tiền ngân sách, hiện
nay, nhiều quốc gia cũng đã thực hiện cơ chế thỏa thuận trước về phương
pháp xác định giá theo nguyên tắc giá thị trường (APA) để chống chuyển
giá, một biện pháp hiệu quả cho quản lý chống chuyển giá bên cạnh việc
thanh tra, kiểm tra. Đây là một cách thỏa thuận giữa cơ quan thuế và
người nộp thuế về phương pháp xác định giá giao dịch, chỉ cần DN giao
dịch dưới giá thỏa thuận, cục thuế sẽ phát hiện ngay.
APA thường được xác định trước khi diễn ra giao dịch giữa các bên
liên kết và là một dạng cam kết từ 3 đến 5 năm của nhà đầu tư về giá để
làm cơ sở xác định nghĩa vụ thuế và cơ quan thuế thực hiện vai trò người
giám sát quá trình thực hiện cam kết này. APA có nhiều lợi ích cho DN
vì DN sẽ được bảo đảm hơn về phương pháp xác định giá theo giá thị
trường. Hiện có 2 loại APA thường được áp dụng, là APA đơn phương và APA
song phương. APA đơn phương là thỏa thuận giữa cơ quan thuế và DN, cung
cấp sự bảo đảm cơ quan thuế sẽ không thanh tra các giao dịch áp dụng
phương pháp được quy định trong APA.
APA song phương là thỏa thuận giữa các cơ quan thuế ở các nước khác
nhau để chống chuyển giá vì chuyển giá thực hiện trên toàn cầu chứ không
chỉ trong 1 nước. APA song phương sẽ bảo đảm cho cả 2 bên đối tượng nộp
thuế vì cả 2 cơ quan thuế ở 2 nước đều đồng ý với giá đã thỏa thuận
trước theo APA. Song, APA song phương chỉ có thể áp dụng cho các giao
dịch giữa các bên có quan hệ liên kết đối với người nộp thuế, cơ quan
thuế các nước, vùng lãnh thổ mà Việt Nam đã ký kết Hiệp định Tránh đánh
thuế 2 lần.
Có một loại khác là APA đa phương giữa các cơ quan thuế và giữa nhiều
người nộp thuế. APA đa phương rất phức tạp nhưng đang ngày càng phổ
biến hơn. Nếu thực hiện APA, cơ quan thuế giảm bớt áp lực thanh tra và
đồng thời có thể sử dụng dữ liệu trong APA để thực hiện các cuộc thanh
tra thuế chống chuyển giá.
Kinh nghiệm riêng
Việt Nam đang kêu gọi đầu tư nước ngoài, nhiều công ty nước ngoài đã
và đang mở chi nhánh hoạt động tại nước ta. Ngược lại, nhiều DN Việt Nam
đã và sẽ mở chi nhánh hoạt động tại nước ngoài. Các DN này lựa chọn giá
chuyển giao dựa trên cơ sở nào là vấn đề đáng quan tâm, vì chúng không
chỉ ảnh hưởng đến lợi ích của DN, mà còn ảnh hưởng đến quyền lợi quốc
gia. Thông qua kinh nghiệm của một số nước trong khu vực ASEAN có thể
rút ra một số bài học hữu ích khi vận dụng vào thực tiễn khuôn khổ pháp
lý và môi trường kinh doanh tại Việt Nam trong công tác quản lý và chống
chuyển giá.
Hiện nay, nhiều quốc gia đã thực hiện cơ chế thỏa thuận trước về
phương pháp xác định giá theo nguyên tắc giá thị trường để chống chuyển
giá. Đây là một cách thỏa thuận giữa cơ quan thuế và người nộp thuế về
phương pháp xác định giá giao dịch, chỉ cần doanh nghiệp giao dịch dưới
giá thỏa thuận, cục thuế sẽ phát hiện ngay.
Thứ nhất, trong điều kiện đó, hành lang pháp lý về chống
chuyển giá ở nước ta vẫn chưa hoàn thiện. Xét ở cấp độ văn bản luật thì
quy định về chuyển giá và chống chuyển giá chưa thực sự đầy đủ và rõ
ràng. Các quy định về định giá chuyển giao chỉ mới dừng ở cấp thông tư
nên hiệu lực pháp lý chưa cao, gây khó khăn cho quá trình thực hiện.
Hiện nay, chưa có quy định rõ ràng về các khoản chi ngân sách phục vụ
chống chuyển giá. Chưa có quy chế phối hợp giữa các cơ quan có liên quan
để giúp ngành Thuế thu thập thông tin phục vụ công tác chống chuyển
giá. Do vậy, giải pháp đặt ra là cần hoàn thiện hành lang pháp lý về
chống chuyển giá. Hoàn thiện quy chế phối hợp giữa các cơ quan chức năng
có liên quan với cơ quan thuế trong hoạt động chống chuyển giá, đặc
biệt là sự phối hợp các cơ quan ngoại giao của Việt Nam ở nước ngoài.
Thứ hai, điều kiện thực hiện chuyển giá là có sự chênh lệch
thuế suất giữa các quốc gia, chính sự chênh lệch này thúc đẩy các doanh
nghiệp thực hiện hành vi chuyển giá. Vì vậy, cần thu hẹp các ưu đãi
thuế. Dĩ nhiên, vì những mục tiêu nhất định, cần phải thực hiện ưu đãi
thuế, song cần cân nhắc các cách thức khác để điều tiết các vấn đề kinh
tế, chỉ sử dụng ưu đãi thuế trong những trường hợp đó là hình thức có
lợi nhất so với các hình thức ưu đãi khác, chẳng hạn như trợ cấp, trợ
giá, hỗ trợ phát triển kết cấu hạ tầng...
Thứ ba, hoàn thiện hệ thống thông tin, dữ liệu về người nộp
thuế. Có hai việc quan trọng cần làm để hoàn thiện hệ thống thông tin,
dữ liệu về người nộp thuế là: Mở rộng nguồn thu thập thông tin bằng các
hoạt động nghiệp vụ của các bộ phận chức năng trong cơ quan thuế mà đặc
biệt là của bộ phận tình báo thuế; Đẩy nhanh tiến trình xây dựng chính
phủ điện tử, đảm bảo sự kết nối và trao đổi thông tin tự động giữa cơ
quan thuế và các cơ quan quản lý nhà nước khác.
Thứ tư, thực hiện ưu tiên rà soát trước đối với các DN kinh
doanh thua lỗ trong nhiều năm hoặc không phát sinh doanh thu; các DN có
lỗ nhưng tiếp tục đầu tư mở rộng quy mô kinh doanh; tiến hành phân tích
hiệu quả hoạt động và so sánh với DN trong nước có cùng quy mô, vị trí…
để xây dựng đề cương làm việc, đề xuất đưa vào diện thanh tra, kiểm tra.
Thứ năm, chuẩn bị nguồn nhân lực với chất lượng cao nhằm
phục vụ cho việc quản lý nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Nguồn nhân sự này
phải được thường xuyên cập nhật kiến thức về kinh tế, kinh nghiệm quản
lý kinh tế, kinh nghiệm về hoạt động chuyển giá của các tập đoàn đa quốc
gia tại các quốc gia trên thế giới.
Bài đăng trên Tạp chí Tài chính số 10 kỳ 2-2015