Đề cập đến nội dung này, đã có nhiều
cuộc hội thảo, diễn đàn đã được tổ chức để đưa ra các ý kiến đóng góp
cho việc xây dựng thương hiệu theo hướng “truyền thông tiếp thị”, “tấn
công vào thị trường”...
Cảnh giác với những hành vi làm tổn hại tới uy tín hàng nông sản Việt
Thực tế cho thấy, nhiều thương hiệu đã
bị mất tại chính nơi xuất xứ. Chẳng hạn như quả vải Thanh Hà (Hải Dương)
được Cục Sở hữu Trí tuệ cấp chỉ dẫn địa lý đã đem lại thêm giá trị tài
sản cho sản phẩm này. Tuy nhiên, người dân Thanh Hà và quả vải Thanh Hà
chưa thực sự được hưởng từ lợi ích này. Rất nhiều nơi trồng vải đã lạm
dụng “khoác” chỉ dẫn địa lý Thanh Hà cho quả vải trồng ở nơi khác để bán
với giá cao. Không riêng gì quả vải Thanh Hà mà còn rất nhiều các nhãn
hiệu nông sản có giá trị ở nước ta đang bị vướng trong việc bảo hộ
thương hiệu.
Thời gian gần đây, báo chí nói nhiều đến
các thương hiệu nông sản nổi tiếng của Việt Nam như cà phê Buôn Ma
Thuột, nước mắm Phú Quốc… bị nước ngoài đăng ký sở hữu nhãn hiệu. Dường
như chúng ta vẫn khá lúng túng trong việc giải bài toán xây dựng và bảo
vệ thương hiệu cho những sản phẩm nông sản của mình.
|
Chè khô một trong những sản phẩm từng bị mất uy tín. Ảnh: internet |
Còn
có một thực tế là ngay chính nông sản Việt Nam cũng đang bị “tấn công”
bởi những hành vi cạnh tranh không lành mạnh làm ảnh hưởng tới uy tín
chất lượng. Đơn cử gần đây nhất cả nước xôn xao về việc một số nông dân
đã trộn bùn, phân lân vào chè khô (hay còn gọi là trà khô) để bán theo
gợi ý của một số người lạ mặt. Những người nông dân đã chất phác khi trả
lời phỏng vấn rằng mình làm như vậy là do khách hàng ở nước láng giềng
yêu cầu. Người mua dùng chè đó để uống hay sử dụng vào mục đích nào thì
đó vẫn là quyền của người mua.
Một hành vi khác mang tính chất gian lận
thương mại, đó là sản xuất nông sản ở quốc gia khác nhưng lại mang
thương hiệu Việt Nam hay nguồn gốc xuất xứ từ Việt Nam mà báo chí hay
gọi là “đội lốt hàng Việt”. Điển hình như các vụ thạch rau câu, nhân của
bánh trung thu truyền thống, rau, củ, quả được mang nhãn hiệu Việt Nam,
thông số sản phẩm bằng tiếng Việt, nơi sản xuất cũng là ở Việt Nam
nhưng thực ra lại hoàn toàn là nông phẩm của một nước láng giềng. Điều
đáng nói là những nông phẩm này lại là những thứ gây hại cho sức khoẻ
con người và hoàn toàn bị cấm ở chính quốc gia đó. Hậu quả là người tiêu
dùng lại mất niềm tin vào thương hiệu nông sản Việt Nam.
Còn phải kể đến một hành vi khác là
phương thức sản xuất nông sản của Việt Nam. Thương nhân nước ngoài đã
hướng dẫn cho nông dân cách tạo ra “nông sản” không cần nuôi, trồng theo
lối phát triển tự nhiên. Rau bí chỉ cần giâm cành và phun thuốc sau hai
ngày thu hoạch, rau muống chỉ cần phun thuốc một ngày là có thể hái đem
bán, heo siêu tăng trọng nhờ hormon... Người nông dân khi đã được
“nhàn” mà lãi cao thì sẽ bám theo phương thức sản xuất mới mà không quan
tâm đến hậu quả của những nông sản này đối với người tiêu dùng và hậu
quả đối với thương hiệu của nông sản Việt Nam.
Mới đây nhất, ngày 5-6, Cục Hải quan
Đồng Nai cho biết, đơn vị này đã tống đạt quyết định xử phạt vi phạm
hành chính đối với Công ty trách nhiệm hữu hạn công nghiệp SPC Tianhua
Việt Nam (đóng tại khu công nghiệp Nhơn Trạch 3, huyện Nhơn Trạch, Đồng
Nai) về hành vi “xuất khẩu hàng hoá giả mạo xuất xứ” số tiền 1,28 tỷ
đồng. Vụ xử phạt này cho thấy quyết tâm của chính quyền trong việc bảo
vệ thương hiệu “made in Vietnam” nhất là trong bối cảnh Việt Nam đang
hội nhập ngày càng sâu rộng và chịu ảnh hưởng lớn của việc cạnh tranh
giữa các nền kinh tế.
Vụ việc này cũng gióng lên hồi chuông về
những hành vi tác động tiêu cực tới thương hiệu Việt, đòi hỏi tất cả
các cấp, ngành phải chung sức chung lòng trong việc phát hiện, điều tra
những hành vi làm tổn hại đến uy tín và chất lượng của sản phẩm, hàng
hóa Việt nói chung và các mặt hàng nông sản nói riêng.
Cần chiến lược quốc gia về thương hiệu nông sản
Điều đáng nói nhất là, hiện nay, những
cơ quan nhà nước có thẩm quyền, hiệp hội, doanh nghiệp, báo chí và thậm
chí cả những người nông dân chưa có những biện pháp kịp thời chống đỡ
lại những hành vi trên. Tất nhiên, cũng không thể đẩy hết trách nhiệm
đối với chất lượng và uy tín sản phẩm cho riêng những người nông dân.
Điều này đặt ra yêu cầu trong chiến lược xây dựng nông sản Việt Nam nên
có thêm những phương án bảo vệ, phòng thủ đồng thời cần phải gắn với
những chiến lược phát triển khác của ngành nông nghiệp.
Có thể thấy, hiện nay, ở nước ta vẫn còn
tồn tại một thực tế, đối với các thương hiệu nông sản nổi tiếng, chúng
ta mới đặt được nền móng ban đầu, còn việc xây dựng và phát triển thương
hiệu chưa làm được nhiều.
Theo đó, cũng cần chú ý tới các yếu tố:
tên thương hiệu (mang tính quốc tế hóa), xây dựng và khơi dậy yếu tố
“linh hồn” cho thương hiệu bằng các giá trị truyền thống đưa vào sản
phẩm, xây dựng chiến lược giá và chiến lược phân phối, chiến lược truyền
thông...
Nói một cách khác, chúng ta cần một
chiến lược tổng thể mang tầm quốc gia để xây dựng, củng cố và bảo vệ
thương hiệu nông sản mạnh. Theo đó, các cơ quan quản lý nhà nước, như Bộ
Nông nghiệp và phát triển Nông thôn cần có chính sách hỗ trợ để bảo hộ
cho thương hiệu nông sản Việt Nam. Chính phủ cần xúc tiến thương mại
mạnh mẽ vào thị trường lớn và khó tính như: Mỹ, châu Âu… để tạo điều
kiện cho các doanh nghiệp nông sản Việt có cơ hội thâm nhập.
Khi chúng ta có những thương hiệu nông
sản mạnh nghĩa là có cơ sở để phát triển ngành kinh tế đó. Trong bối
cảnh suy thoái kinh tế toàn cầu, vấn đề này trở nên cấp thiết. Do đó,
hơn lúc nào hết, cần quan tâm hơn nữa tới xây dựng và bảo vệ thương hiệu
nông sản nói riêng và thương hiệu các sản phẩm “made in Vietnam” nói
chung.
Theo CPV