Các loại giá cả, như giá xăng dầu, giá
điện, giá than, lãi suất... - phạm trù trung tâm của kinh tế thị trường
- được điều hành hầu như hoàn toàn theo mệnh lệnh hành chính.
Những
tuyên bố về yêu cầu áp dụng cơ chế giá thị trường cho một số ít mặt
hàng chiến lược còn lại mà giá cả chưa được “thị trường hóa” đầy đủ được
đưa ra nhiều và khá mạnh mẽ, nhưng lại chậm hoặc ít được thực thi.
Xu
hướng chung là nền kinh tế càng bất ổn thì cách điều hành hướng vào xử
lý tình thế ngắn hạn như vậy càng “áp đảo”. Nhưng do hiệu quả đạt được
của cách điều hành này thấp nên chúng càng làm gia tăng tình trạng mất
lòng tin của thị trường.
Trong số các chính sách
điều hành vĩ mô của năm 2012, có thể lấy cách điều hành chính sách tiền
tệ, trong đó, nổi bật nhất là chính sách lãi suất, làm “mẫu” để phân
tích nhằm rút ra những kinh nghiệm.
Trong vài
năm qua, lãi suất được điều hành chủ yếu bằng mệnh lệnh của Ngân hàng
Nhà nước (NHNN) thay vì sử dụng các công cụ thị trường (công cụ chính
sách tiền tệ). Cơ chế điều hành là “áp đặt” lãi suất huy động trong khi để “tùy định” lãi suất cho vay. Theo
cơ chế này, người gửi tiền bị áp đặt trần lãi suất trong khi người cho
vay (các ngân hàng) có quyền áp đặt lãi suất cho vay nhiều hơn trong
quan hệ “thỏa thuận lãi suất” với các doanh nghiệp đi vay.
Hai
năm qua, trong điều hành thực tế, sử dụng quyền được quyết định “trần
lãi suất huy động”, NHNN luôn chủ động giảm lãi suất huy động xuống mạnh
hơn và nhanh hơn lãi suất tín dụng. Nghĩa là về nguyên tắc, trong suốt
một thời gian khá dài, cách làm của NHNN cho phép duy trì khoảng cách
giữa lãi suất huy động và lãi suất cho vay ít nhất là an toàn, nếu không
nói là luôn có lợi cho các ngân hàng trong khi các doanh nghiệp vẫn cứ
phải trông chờ lãi suất hạ từng điểm phần trăm để giảm nhẹ gánh nặng lãi
suất cao - nợ xấu và giảm thiểu nguy cơ đóng cửa vì không thể tiếp cận
vốn do lãi suất vẫn cao.
Tuy cách
điều hành lãi suất đó của NHNN dựa vào một lý lẽ có vẻ như rất khó bắt
bẻ về mặt nguyên tắc - để hạ lãi suất cho vay thì trước hết phải hạ lãi
suất huy động, song thực tế duy trì “độ trễ” của việc giảm lãi suất cho
vay so với giảm lãi suất huy động trong suốt một thời gian dài làm cho
tương quan lợi ích giữa ngân hàng với doanh nghiệp và nền kinh tế nói
chung trở nên khó biện minh: trong khi các doanh nghiệp cần được “cấp
cứu” thì ngân hàng vẫn không muốn chia sẻ một phần lợi ích mình thu được
với doanh nghiệp; ngân hàng cũng không muốn chịu bất cứ rủi ro nào,
trước tiên là rủi ro giảm hay mất lợi nhuận trong khi nền kinh tế và các
doanh nghiệp đang lâm vào tình thế khó khăn nghiêm trọng, đến mức nhiều
doanh nghiệp đã phải chịu thua lỗ lớn và phải đóng cửa.
Cũng
phải nói thêm rằng chính sách lãi suất trong thời gian qua, nếu nhìn
tổng thể, còn gây ra hiệu ứng “kép”: một bên là làm suy yếu động cơ gửi
tiền vào ngân hàng của xã hội; một bên khác là làm chậm quá trình tiếp
cận vốn giá rẻ hơn của các doanh nghiệp.
Ts. Trần Đình Thiên
Tại
Diễn đàn kinh tế mùa xuân mới được tổ chức vào đầu tháng 4/2013, ông
Trần Đình Thiên - Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam cho biết: Hiện nay
có nhiều thứ xấu hơn cả nợ xấu. Không có điểm mới đáng kể nào trong thực
tiễn kinh tế từ 2007 đến nay ngoại trừ xu hướng xấu đi của tình hình.
Trong
các bài viết, bài nói về kinh tế trên các diễn đàn, hai từ được dùng
với tần số cao nhất là “nghiêm trọng” và “quyết liệt” - dù khác nhau về
nội dung diễn đạt, hóa ra chỉ phản ánh duy nhất một điều: tình thế khó
khăn hơn của nền kinh tế, đến độ gay gắt mà chưa hề phản ánh tính chất
quyết liệt của hành động cải cách thực tế. Bởi vậy cần có sự bàn thảo để
tìm câu trả lời cho câu hỏi cải cách trong bối cảnh nền kinh tế ngày
càng khó khăn, thậm chí, có nguy cơ khủng hoảng, ở Việt Nam thực sự có
nghĩa là gì? Tại sao suốt mấy năm trời, đã không có một nỗ lực cải cách
thực sự nào được thực thi? Phải chăng động lực và năng lực cải cách của
nền kinh tế đã bị suy yếu nghiêm trọng?
Việc
không biết chính xác số nợ xấu, còn xấu hơn cả nợ xấu, bởi không có số
liệu đáng tin cậy thì không thể xây dựng chiến lược đúng để giải quyết
vấn đề.
Vẫn xấu hơn cả nợ xấu, đó là
quá nhiều doanh nghiệp - lực lượng chủ lực của tăng trưởng - đã “chết”.
Hiện tượng số doanh nghiệp đóng cửa của quý một năm nay ngang bằng với
số doanh nghiệp đăng ký mới được ông Thiên cho là sự kiện mang tính lịch
sử. Bởi chênh lệch của hai số liệu này thường ở khoảng 10 nghìn,
nghiêng về số doanh nghiệp mới.
Còn nhiều thứ khác, là xấu hơn hoặc ít nhất cũng xấu bằng nợ xấu, trong đó có tồn kho bất động sản - một khái niệm mới. |