PV Lao Động trao đổi với GĐ Trung tâm phát triển xã hội và môi trường vùng Đặng Đình Long - người vừa chủ trì một cuộc điều tra xã hội học liên quan đến tình trạng thất nghiệp.
Không cùng một mẫu số
Là chuyên gia nghiên cứu về thị trường lao động, ông thấy sao về câu chuyện tỉ lệ thất nghiệp đang gây tranh cãi?
- Tôi theo dõi tương đối sát sao các cuộc tranh luận về số
thất nghiệp và tạo việc làm của cả các chuyên gia cũng như các ĐBQH về
tỉ lệ thất nghiệp. Tỉ lệ này giảm còn 3,25% trong tình trạng tổng vốn
đầu tư xã hội giảm và DN giải thể hàng loạt thì quả thực nếu theo cách
tư duy thông thường, người ta có quyền đặt vấn đề như vậy.
Logic đầu tư xã hội giảm - doanh nghiệp phá sản, giải thể hàng loạt - tỉ lệ thất nghiệp tăng thoạt tiên có vẻ có được chấp nhận, tuy nhiên, logic thông thường và kết quả nghiên cứu thực tế dựa trên một hệ thống phương pháp luận khoa học trong trường hợp này là không cùng một mẫu số. Và những khẳng định của tôi là căn cứ vào những nghiên cứu cụ thể.
Vậy có sự thiếu khoa học khi nói “thêm một số 0 vẫn đúng”, thưa ông?
- Trong thực tế, nhiều khi đối với cùng một vấn đề, những nhóm nghiên cứu khác nhau cũng có thể đưa ra các kết quả khác nhau, nếu như họ không sử dụng cùng một hệ thống phương pháp luận. Nghiên cứu của cơ quan tôi vừa tiến hành cho thấy tỉ lệ thất nghiệp theo đúng nghĩa là khá thấp và việc quay trở lại thị trường lao động của người thất nghiệp khá dễ dàng.
Cụ thể, tại thời điểm khảo sát có gần 70% số người thất nghiệp đã có việc làm trở lại, trong khi có 23% số người thất nghiệp chưa có nhu cầu tìm việc.
Cũng có không ít người chủ động nghỉ việc, hưởng trợ cấp thất nghiệp để tìm một công việc tốt hơn. Thực tế thị trường lao động khó có thể nói “thêm một số 0 vẫn đúng”. Tôi nghĩ cường điệu gì thì cường điệu chứ không thể nói tệ đến mức như vậy.
Nhưng thực tế cũng cho thấy, rất nhiều người lao động phải tìm việc làm tại địa phương khác, thậm chí lao động chui tại một số quốc gia khác. Đây có phải là một biểu hiện của tình trạng khan hiếm việc làm không, thưa ông?
- Theo tôi, đó đơn thuần là một biểu hiện của hiện trạng thiếu hụt việc làm có tính chất cục bộ ở một số địa phương. Đó là hậu quả của những bất cập liên quan đến quy hoạch phát triển vùng. Sự di cư lao động vì thế tất yếu xảy ra và đây là tình trạng chung trên toàn thế giới, chỉ khác nhau về mức độ. Sự mất cân đối đó dẫn đến hệ quả khu vực nông thôn, nông nghiệp hiện thiếu hụt nghiêm trọng lao động trẻ.
Cử nhân tài chính, ngân hàng dư thừa lớn
Ở hàng loạt các tỉnh, người lao động có bằng cấp đang thất nghiệp với số lượng rất lớn, có thể lý giải thế nào về tình trạng này, thưa ông?
- Trong thực tế, có không ít người lao động có bằng cấp, thậm chí có bằng cấp cao vẫn thất nghiệp. Có tỉnh thừa hàng trăm ngàn. Đây là hệ quả của “giáo dục kiểu phong trào”, là sự bất cập giữa đào tạo và thị trường.
Tôi còn nhớ 3-4 năm trước, Trung tâm quốc gia dự báo và thông tin thị trường lao động đã cảnh báo, nếu ngành giáo dục không điều chỉnh cơ cấu chỉ tiêu tuyển sinh thì chỉ sau 3 năm, cung nhân lực có trình độ đại học cho ngành tài chính ngân hàng sẽ vượt xa cầu và bây giờ thì đúng là cử nhân tài chính ngân hàng “đếm không xuể”. Nhiều người nói, nước ta thừa thầy thiếu thợ, tôi thì ủng hộ quan điểm cho rằng hiện ta đang thiếu cả thầy lẫn thợ.
- Xin trân trọng cảm ơn ông!
Theo Anh Đào
Lao động
