Đó là nhận định của ông Alan T Phạm, kinh tế gia trưởng Vinacapital đối với xu hướng lãi suất trên thị trường sau động thái hạ lãi suất điều hành của NHNN.

Sau khi NHNN chính thức tuyên bố hạ lãi suất thị trường đã có những
đánh giá khác nhau. Phóng viên đã có cuộc trao đổi với ông Alan T Phạm,
kinh tế gia trưởng Vinacapital.
Quan điểm của ông với chính sách điều hành hạ lãi suất mới đây của NHNN ?
Trước
hết chúng tôi đánh giá động thái hạ lãi suất điều hành của NHNN là tích
cực, nhưng chậm hơn so với thị trường. Rõ ràng thời gian qua lãi suất
trên thị trường tài chính của chúng ta đã giảm, từ lãi suất liên ngân
hàng, lãi suất TPCP; thậm chí lãi suất cho vay của nhiều ngân hàng cũng
đã được điều chỉnh giảm 3-4 tuần trước.
Hành
động giảm lãi suất của NHNN mặc dù sau thị trường nhưng đến niềm tin,
kích thích cho thị trường tin tưởng là chiều hướng giảm lãi suất sẽ được
tiếp tục. Vì vậy chúng tôi đánh giá cao hành động lần này của NHNN.
NHNN
hạ lãi suất cùng với việc điều chỉnh tăng giá mặt hàng cơ bản như xăng
dầu, điện than liệu có khiến cho lạm phát bùng phát trở lại?
Chúng
tôi nghĩ lạm phát của Việt Nam đúng là chịu tác động từ những yếu tố
nêu trên. Tuy nhiên thời gian vừa qua thị trường cũng đã dự đoán được và
hấp thụ. Ví dụ như giá xăng đã được dự báo điều chỉnh 10% hay giá điện
là 5% thì đều đã được thông báo từ năm ngoái. Thông thường với thông tin
đã được dự đoán trước như vậy thì thị trường sẽ không có phản ứng quá
mạnh. Do vậy chúng tôi vẫn lạc quan là lạm phát sẽ không tiêu cực quá
khi điều chỉnh giá các mặt hàng cơ bản.
Ngay
như giá xăng sau điều chỉnh thì Bộ tài chính cũng đã công bố mức ảnh
hưởng của tăng giá xăng tới lạm phát là khoảng 0,85%, trong đó ngay lập
tức là 0,24% và còn lại được chia đều cho các tháng trong năm. Như vậy
lạm phát sẽ không bị đẩy lên “quá đáng”, ảnh hưởng sẽ dịu bớt theo thời
gian.
Vậy theo ông, liệu lạm phát năm nay có đạt được mục tiêu là dưới 10% hay không ?
Ở
Vinacapital dự báo lạm phát năm nay có thể xuống mức 10% hoặc thấp hơn
chút. Với chúng tôi thì 10% hay 9% thì đều là kết quả khả quan, và chúng
tôi dự kiến là 10%.
Vậy lãi suất huy động bao nhiêu là hợp lý vào thời điểm cuối năm?
Với
dự kiến lạm phát là khoảng 10% vào cuối năm thì lãi suất huy động hợp
lý theo tôi là 10-11%/năm và như thế thì lãi suất cho vay xuống khoảng
13-14%/năm. Như thế thì ngân hàng sẽ có lợi nhuận biên khoảng 3% là khả
thi.
Tuy
nhiên nguồn vốn ngân hàng hiện vẫn là nguồn vốn lãi suất cao, như vậy để
lãi suất hạ được xuống mức như mong muốn theo ông sẽ cần bao lâu?
Theo
chúng tôi chỉ các ngân hàng yếu kém thì mới kẹt về thanh khoản và chấp
nhận huy động vượt trần 14%/năm, còn các ngân hàng lớn thì thanh khoản
lại thừa. Tuy nhiên việc cho vay ra hiện khó khăn do mặt bằng lãi suất
cao, các doanh nghiệp cũng không muốn vay. Mức lãi suất thực tế cũng
không thể thay đổi chỉ qua 1 đêm mà cần khoảng thời gian nhất định. Vì
thế chúng tôi dự đoán từ bây giờ đến quý III thì trần lãi suất huy động
xuống 12%/năm, lạm phát giữ ở mức 11% và lãi suất cho vay ra sẽ khoảng
15%/năm. Đến quý IV thì các mức lãi suất sẽ tiếp tục hạ thêm 1%.
Mặc
dù lãi suất có thể hạ như ông phân tích, nhưng với lãi suất 15%/năm thì
vẫn rất cao đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thông thường.
Ông có nhận xét gì về điều này?
Theo tôi
mức lãi suất này theo định hướng chính sách của Nhà nước. Vì chúng ta
vẫn cần duy trì mức lãi suất đủ để kiềm chế lạm phát. Mức lãi suất
15%/năm có nhiều doanh nghiệp thấy khó khăn nhưng cũng có nhiều doanh
nghiệp chấp nhận được. Chúng tôi cho rằng mức lãi suất phần nhiều các
doanh nghiệp sẽ chịu được để vượt qua khó khăn.
Kinh
tế vĩ mô đang dần ổn định, lãi suất có xu hướng hạ, những điều kiện này
có hấp dẫn được các nhà đầu tư nước ngoài hay không?
Đối
với nhà đầu tư nước ngoài thì điều quan tâm nhất là rủi ro tỷ giá. Nếu
tỷ giá biến động bất thường thì họ rất ngại. Khoảng thời gian 1 năm trở
lại đây thì tỷ giá khá ổn định, và trong 3 tháng gần đây VND còn tăng
giá so với USD. Đó là tín hiệu khả quan. Trên thị trường chứng khoán thì
khối ngoại vẫn có động thái mua ròng cho thấy họ tin vĩ mô của Việt Nam
sẽ ổn định, hấp dẫn họ đầu tư vào Việt Nam.
Nhà đầu tư nước ngoài có muốn đầu tư vào lĩnh vực bất động sản không thưa ông?
Thực
ra dòng tiền đầu tư FDI đã dịch chuyển sang sản xuất hàng hóa tiêu
dùng, phân phối hàng hóa và sản phẩm công nghiệp và rời khỏi lĩnh vực
BĐS. Như thế chứng tỏ các NĐT ngoại không còn thấy BĐS là kênh đầu tư
hấp dân. Chúng tôi đánh giá đó là tín hiệu tốt cho nền kinh tế vì sự
chuyển dịch vốn của nhà đầu tư ngoại hướng đến lĩnh vực rộng, có tác
động mạnh đến nền kinh tế. thị trường BĐS sẽ còn khó khăn trong 1 năm
nữa, và các dự án bđs sẽ phải tái cơ cấu lại. đây là điểm tốt cho thị
trường
Có một
số thông tin cho rằng nhiều ngân hàng ngoại muốn mua cổ phần của các
ngân hàng yếu kém của Việt Nam. Theo ông nhận định này có khả quan?
Lĩnh
vực tài chính ngân hàng vẫn là ngành hấp dẫn. Ngoài những ngân hàng
nhóm 3,4 thì các ngân hàng nhóm I, II vẫn đang hoạt động tốt. Vì thế với
các nhà đầu tư dù là trong nước hay nước ngoài muốn đầu tư vào ngân
hàng chỉ có thể đi qua cánh cửa tái cấu trúc ngân hàng của ngân hàng nhà
nước, và đối tượng ở đây là các ngân hàng yếu thuộc nhóm 3,4.
Cũng
đã có nhiều nhà đầu tư nước ngoài thể hiện sự quan tâm với đầu tư lĩnh
vực ngân hàng của Việt Nam, chủ yếu là các ngân hàng đến từ thị trường
Âu Mỹ nhưng có sự phát triển mạnh thị trường châu Á như HSBC, Standard
Chatered, JP Morgan, Citibank.
Mặc dù các ngân
hàng này đều có chi nhánh hoặc VPĐD ở Việt Nam nhưng việc mua cổ phần
ngân hàng Việt Nam thực sự hấp dẫn, và các nhà đầu tư ngoại thì kỳ vọng
có thể kiếm lời từ đây. Hơn nữa đầu tư mua cổ phiếu ngân hàng cũng là
cách đa dạng hóa đầu tư của họ.