Chất lượng tốt, giá thành rẻ nhưng nhiều năm qua hàng Việt và những thương hiệu Việt vẫn loay hoay khi tìm chỗ đứng ở trời Âu.
Điều
khiến những doanh nhân người Việt ở nước ngoài thấy xót xa là mỗi ngày
có tới 2.000 container được vận chuyển tới vô vàn trung tâm thương mại
lớn ở Moscow, Berlin, Praha, Kiev, Kharkov... nhưng chỉ toàn hàng Trung
Quốc, Thái Lan, Hàn Quốc... còn hàng Việt vẫn vắng bóng.
Trở về
Việt Nam nhân dịp Bộ Ngoại giao mở diễn đàn về hợp tác xuất khẩu giữa
doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp Việt kiều, ông Phạm Ngọc Chu,
Chủ tịch Hiệp hội doanh nghiệp Việt Nam tại Hungary, Phó Chủ tịch Ủy ban
Hợp tác kinh tế Việt Nam - Hungary, đồng thời cũng là Giám đốc Công ty
Limexport - một tập đoàn siêu thị lớn, đã rất thẳng thắn bày tỏ những
quan ngại của mình trước thực trạng hàng Việt đang "lép vế” ở trời Âu.
Ông cho
hay cuộc vận động "Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” do Bộ
Chính trị phát động đang thực sự lan tỏa sang cộng đồng kiều bào ta ở
nước ngoài. Thế nhưng, đáng buồn là phần lớn hàng hóa mà cộng đồng người
Việt đang kinh doanh và phân phối lại là hàng Trung Quốc, Thái Lan, Thổ
Nhĩ Kỳ, Hàn Quốc... Còn hàng Việt Nam muốn thâm nhập thị trường này,
lại gặp rất nhiều khó khăn. Vì sao vậy, ông Chu cho rằng "sự thành -
bại” của hàng Việt khi vươn ra thị trường châu Âu không phải do kém chất
lượng, mà căn nguyên là do những doanh nghiệp trong nước chưa chú trọng
đầu tư một cách bài bản cho chiến lược xuất khẩu sang thị trường châu
Âu. Từ kinh nghiệm của một doanh nhân hơn 20 năm lăn lộn ở thương trường
Hunggary, ông Chu khẳng định: Xây dựng chiến lược xuất khẩu hàng hóa
Việt Nam ra nước ngoài là việc làm "sống còn”, đầy lợi ích, không chỉ
trong vòng 5 năm, 10 năm mà cả cho các thế hệ mai sau.
Theo
ông Chu, cơ hội xuất khẩu và cạnh tranh của hàng Việt Nam với hàng hóa
các nước khác ở trời Âu rất rộng mở, nếu chúng ta biết cách. Điều làm
ông băn khoăn nhất là chiến lược xuất khẩu, maketing của nhiều nhà sản
xuất trong nước chưa đúng hướng, hoặc đơn giản là chủng loại hàng hóa mà
các doanh nghiệp trong nước mang đi chào bán lại không hợp với nhu cầu,
thị hiếu của người dân châu Âu. Đơn cử như việc kinh doanh cà phê Trung
Nguyên G7 ở nước ngoài. Trong khi sản phẩm này có chất lượng rất tốt,
giá rẻ song sản phẩm bán ra lại rất èo uột, thì hãng Nescafe của Nesle
lại bán rất chạy, số lượng tiêu thụ cao hơn gấp nhiều lần so với cà phê
Trung Nguyên G7. Điều này không quá khó hiểu vì việc dùng ký hiệu G7
trên vỏ bao bì thường dễ khiến cho người Âu liên tưởng tới sắt thép, hóa
chất... chứ không phải là đồ ăn, thức uống. Mang đến Hội thảo cơ hội
hợp tác đầu tư giao thương và xuất khẩu hàng Việt Nam vừa rồi có rất
nhiều mẫu mã bao bì của sản phẩm gạo, bánh kẹo, cà phê... của Việt Nam
xuất sang thị trường châu Âu, ông Chu đã chứng minh cho thấy khâu quảng
bá, tiếp thị cho hàng xuất của chúng ta đang bị xem nhẹ. Chẳng hạn thay
vì quảng bá hình ảnh bông lúa hoặc giống lúa cho năng suất cao trên bao
bì xuất khẩu gạo, họ lại vẽ lên đó hình một cô gái mặc áo dài nhưng tay
lại ôm ngang bụng... trông rất phản cảm. Về sự cẩu thả trong tìm hiểu
thị trường nước ngoài, ông Chu tâm sự: sản phẩm gà con ninh thuốc Bắc
đóng hộp hay trứng vịt lộn, con nhộng rang muối... của Việt Nam đúng là
món ăn ngon, mang màu sắc truyền thống của người Việt nhưng với thực
khách châu Âu, không chừng khi chúng ta xuất sản phẩm này sang nước họ,
nó sẽ phản tác dụng và bị Hội bảo vệ động vật kiện về tội bạo hành động
vật...
Để hàng
Việt nói chung và những thương hiệu Việt có chỗ đứng ở thị trường ngoài
nước, theo đó mỗi doanh nghiệp phải tìm hiểu kỹ nhu cầu, thị hiếu văn
hóa tiêu dùng của từng thị trường khu vực, từ đó, định hình công việc
tiếp thị. Nói về xu hướng tiêu dùng, ông Chu chia sẻ, người dân châu Âu
thích ăn đồ ngọt nhưng sợ ăn nhiều sôcôla thì béo nên thị trường bên đó
rất cần một sản phẩm đồ ngọt thay thế sôcôla. Có thể đó là kẹo vừng, kẹo
lạc nấu với mạch nha vẫn thấy bán ở những vỉa hè quán cóc nơi quê nhà.
Hay thời gian gần đây người Âu tỏ ra rất thích cây tre và các sản phẩm
làm từ tre, vì vậy mà có nhiều hãng sản xuất kinh doanh lớn đã lấy cây
tre là biểu tượng sản phẩm của mình như hãng Loreal Pari, Schwarzkopt
của Đức... Giá như trong làng sản xuất Việt Nam, có ai đó thử nghiên cứu
và nghĩ ra làm mứt măng thì có lẽ sản phẩm vừa độc đáo, vừa bán chạy...
Một
điều cần lưu ý nữa là thị trường châu Âu và thế giới luôn thay đổi một
cách nhanh chóng theo thời gian và chu kỳ, cho phù hợp với nhịp độ cuộc
sống và phong cách người dân. Do đó, tính thời sự của mỗi sản phẩm tiêu
dùng cũng rất quan trọng. Không những đồ may mặc mà cả đồ công nghiệp
nặng như xe hơi cũng được thay đổi thường xuyên cho hợp mốt. Đồ ăn uống
cũng thay đổi theo từng mùa và từng chu kỳ, có thời điểm họ rất chuộng
đồ ăn mang hương vị dâu, rồi tới hương vị chuối, gần đây là cây lô hội
(aloa vera), và biết đâu thời gian tới có thể sẽ là hương vị xoài...
Những nhà sản xuất Việt Nam không thể bỏ qua yếu tố này, phải bám vào sở
thích của họ để sản xuất ra những hàng hóa phù hợp. Chẳng hạn như sản
phầm mì ăn liền xuất khẩu nay có thể đưa thêm vào hương vị Aloa vera gọi
là mì Aloa vera, hoặc thêm xoài sẽ thành mì Mango... Về lâu dài, nhất
thiết các doanh nghiệp Việt Nam phải tự mình đi bán hàng và xây dựng
thương hiệu trực tiếp, không nên qua các công ty trung gian nào khác. Vì
nguy cơ sản phẩm của mình sẽ không bám chặt thị trường và người tiêu
dùng và thậm chí, còn dễ bị đánh cắp thương hiệu. Một kinh nghiệm khác
là các doanh nghiệp Việt khi ra nước ngoài, hoàn toàn có thể hợp tác với
các chi nhánh doanh nghiệp Việt kiều ở nước sở tại để hỗ trợ nhau kinh
doanh và phát triển.
Theo ubvk.hochiminhcity.gov.vn