
Mục đích của nghị định là muốn minh bạch giao dịch, không để xảy ra trốn thuế và hạn chế dùng tiền mặt giao dịch. Ý định thì đều tốt cả nhưng thực hiện hiện nay lại rất khó.
Ví dụ, theo nghị định này, giao dịch mua xe máy chừng mười mấy triệu cũng phải thực hiện qua ngân hàng. Vậy những người ở vùng sâu, vùng xa, họ biết ra ngân hàng nào. Rồi thứ 7 hay chủ nhật, ngân hàng không mở cửa thì thanh toán thế nào.
Ở các nước đã phát triển, người dân quen với thanh toán qua tài khoản hàng chục năm nay. Ví như ở
Mỹ, gần như mọi thứ thanh toán qua thẻ tín dụng, rất ít người có hệ số tín dụng thấp tới mức không
thể có thẻ tín dụng. Chỉ khoảng 1% thanh toán bằng tiền, còn lại thanh toán qua thẻ tín dụng hay
ngân hàng. Nhưng họ đã tổ chức hệ thống ngân hàng đã hơn 200 năm nay, áp dụng thanh toán qua ngân
hàng cũng đã (tới) hơn 100 năm. Ở Việt Nam khó có thể áp dụng ngay được.
Nghị định thanh toán bằng tiền mặt được đưa ra lấy ý kiến người dân tại thời điểm mà hoạt
động của hệ thống ngân hàng đang bộc lộ nhiều yếu kém: nợ xấu ở mức cao, nhiều ngân hàng thương mại
lách luật lãi suất… Điều đó khiến người dân hết sức băn khoăn. Ý kiến của ông như thế
nào?
Nếu đặt vào vị trí người dân thì đưa ra nghị định như vậy
chắc chắn có nhiều điều khiến người ta chưa thỏa mãn. Thứ nhất, buộc
phải thanh toán qua ngân hàng
nghĩa là người dân buộc phải trả thêm phí dịch vụ. Thứ hai, người dân bị
buộc phải gửi tiền vào ngân hàng trước khi thực hiện giao dịch như vậy
đồng nghĩa với việc giúp ngân hàng huy động vốn với lãi suất ưu đãi. Dù
cho đó không phải là mục
đích của Nghị định nhưng hệ quả của nó đặt người dân vào hoàn cảnh khó
khăn và tạo lợi thế cho ngân
hàng.
Trong khi đó, vấn đề rủi ro của ngân hàng ai cũng thấy. Tỉ lệ nợ xấu của ngân hàng đã lên tới 10%,
có trường hợp lên tới 40% trong khi tiêu chí nợ xấu của ngân hàng theo tiêu chuẩn quốc tế là không
quá 2%. Nghị định áp đặt người dân mua cái gì cũng phải ra ngân hàng có thể khiến người ta có
suy nghĩ, chính phủ muốn giúp đỡ cho ngân hàng. Điều đó không có lợi cho mối quan hệ giữa
người dân và Chính phủ, đặc biệt trong thời điểm này.
Dù sao cũng không thể phủ nhận thanh toán qua tài khoản sẽ minh bạch và tiến bộ hơn. Cần
làm gì để Nghị định này được người dân chấp nhận tích cực hơn, thưa ông?
Nhà nước phải làm công tác nghiên cứu sâu hơn nữa,
trình bày rõ để người dân hiểu. Theo tôi, đây là một quyết định sẽ ảnh hưởng tới tất cả người dân,
vì vậy, nên đưa ra để Quốc hội xem xét và quyết định.
Vì lợi ích nhóm?
Trong nỗ lực khác, Chính phủ đã đề ra một loạt các giải pháp như: cho phép mua bán nhà xã
hội, chi tiền cho vay bất động sản, biến nhà thương mại thành nhà xã hội... để cứu thị trường bất
động sản, từ đó, giải cứu nền kinh tế. Quan điểm của ông như thế nào?
Tạo điều kiện giúp người dân tiếp cận nguồn vốn vay ưu đãi
để sở hữu nhà là việc làm có nhiều lợi ích cho nền kinh tế. Thứ nhất, lĩnh vực bất động sản phát
triển kéo theo đó là vật liệu xây dựng, đồ gỗ, nội thất… Thông thường, những hoạt động này đóng góp
khoảng 20% GDP của một quốc gia.
Thứ hai, sự nóng lên của thị trường bất động sản sẽ kéo theo việc
làm cho hàng triệu lao động, mà khi những lao động này có thu nhập, họ sẽ mua hàng hóa tiêu dùng,
kéo theo sự phát triển của các ngành kinh tế khác nữa. Tuy nhiên, theo tôi, những đề xuất mà Chính
phủ hay các doanh nghiệp đưa ra đều chưa phù hợp.
Ví dụ, đề xuất mua những bất động sản hiện giờ rồi chuyển thành chung cư xã hội không phù hợp ở
điểm: 1. Những chung cư đó phần lớn là chung cư cao cấp, tiêu chí về diện tích, mặt bằng… khác hẳn
với tiêu chí của chung cư xã hội. Người dân sẽ phải bù thêm nhiều tiền để sở hữu những chung cư như
vậy. 2. Dựa vào cơ sở nào để chọn dự án nào để chuyển đổi, không khéo sẽ thành việc dùng ngân sách
giải quyết những nhóm lợi ích, điều đó là tối kỵ.
Mới đây, BIDV có tờ trình đề xuất Thủ tướng xem xét lập công ty tái cho vay thế chấp ngay
trong quý II/2013 để hỗ trợ thị trường bất động sản. Theo ông, liệu đó có là giải pháp khả thi để
giúp người dân mua nhà không?
Phải nói rằng, thành lập một quỹ cho vay bất động sản với
lãi suất ưu đãi là việc mà nhiều quốc gia trên thế giới đang làm, ở Mỹ là Fannie Mae và Freddie Mac
của Chính phủ Liên bang cho vay với lãi suất 3-4%.
Tuy nhiên, đề xuất nói trên của BIDV có một vài điểm, theo tôi, là chưa phù hợp. Thứ nhất,
mục tiêu cho vay với lãi suất thấp, dưới mức thông thường nhưng cụ thể mức lãi suất là bao nhiêu.
Nếu lạm phát là 16-20%, cho vay 10 - 12 % là thấp nhưng nếu lạm phát giảm như trong tháng 6/2012,
mức lãi suất đó đã phù hợp chưa. Và đó đã phải là mức lãi suất mà người dân có thể chấp nhận được
hay chưa?
Thứ hai, tại sao lại đưa ra những tiêu chuẩn ưu tiên, chia công dân Việt Nam thành công dân hạng
nhất, hạng hai như thế?
Thứ ba, BIDV đưa ra đề xuất tiêu chuẩn thu nhập thấp là dưới 4,8 triệu đồng/tháng. Thử hỏi, ai có
mức thu nhập bình quân như thế mà dám nghĩ tới chuyện mua nhà. Mặt khác, trong khi Quốc hội đưa ra
mức phải nộp thuế thu nhập cá nhân là 9 triệu đồng/tháng, tại sao không áp dụng mức này mà lại đặt
ra con số 4,8 triệu đồng. Sự chênh nhau, thiếu logic giữa các con số khiến người dân phải suy
nghĩ.
Giả sử, ông được Chính phủ mời góp ý cho tờ trình này, ông sẽ đưa ra những đề xuất như thế
nào?
Theo tôi, nên thiết lập một quỹ mà ngân sách không
phải bỏ tiền ra. Chính phủ chỉ định ngân hàng nhà nước cấp vốn cho quỹ, và chỉ đạo quỹ này cho vay
với lãi suất 3-4 %, thời hạn 10-20-30 năm. Quỹ này sẽ trả lãi ngân hàng nhà nước là 1%, mức đảm bảo
để ngân hàng nhà nước có thể vận hành tốt. Sau này khi nền kinh tế phát triển tốt và mặt bằng lãi
suất được bình ổn ở mức thấp, quỹ này có thể huy động vốn trên thị trường tài chính, qua phát hành
trái phiếu được nhà nước bảo lãnh
Quỹ này có thể tiến thêm một bước nữa, tương tự như Fannie Mae của Mỹ, là mua lại hợp đồng cho vay
bất động sản của hệ thống ngân hàng. Nói cách khác, các ngân hàng trở thành đại lý của quỹ, cho
người dân vay tiền mua nhà với lãi suất phù hợp.
Một nguồn tín dụng như vậy sẽ tạo cơ hội cho nhân dân mua nhà trả góp, hàng triệu căn hộ sẽ được
xây dựng để đáp ứng nhu cầu của đa số người dân, tạo ra công ăn việc làm và thu nhập cho người lao
động, phát triển các lĩnh vực tiêu dùng, và cuối cùng là tạo nguồn thuế cho ngân sách. Quan trọng
là phải quản lý và giám sát chặt chẽ để tránh tiêu cực, tránh lạm dụng như đã xảy ra ở Mỹ với
Fannie Mae và Freddy Mac, tạo nên bong bóng bất động sản, đưa đến khủng hoảng tài chính, và lôi nền
kinh tế rơi vào hiểm họa suy thoái.
Việc thành lập và vận hành những quỹ hỗ trợ bất động sản như trên thế giới đã áp dụng nhiều và
chúng ta hoàn toàn có thể học hỏi và áp dụng vào Việt Nam. Đó đều là những việc hoàn toàn nằm
trong tầm tay của Chính phủ, tôi không hiểu tại sao Chính phủ lại không làm?
Theo Hoàng Hạnh
Đất việt