Ông đánh giá như thế nào về Dự thảo Nghị định lần này?
Mong muốn của Chính phủ cũng như NHNN trong việc khuyến khích nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt các nhà đầu tư có tính chất chiến lược tham gia đóng góp vào vốn cổ phần các ngân hàng trong nước, đồng thời khuyến khích họ tăng cường hỗ trợ các ngân hàng Việt Nam là vấn đề cốt lõi.
Trong vấn đề tái cấu trúc, một quy định liên quan có thể cho phép Chính phủ vượt quy định 30%, đây là điểm nổi bật nhất trong dự thảo lần này. Khi các nhà đầu tư nước ngoài nhận được quy định này thì họ sẽ nhìn nhận một cách rõ ràng hơn.
Theo ông tỷ lệ sở hữu tại các TCTD yếu kém mà NHNN dự kiến sẽ nâng lên trong thời gian tới có đủ sức hấp dẫn đối với nhà đầu tư nước ngoài hay không?
Tôi cho rằng vẫn chưa đủ sức hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài với tỷ lệ 30%. Cho đến nay những quy định trong dự thảo mới cũng không có gì thay đổi nhiều lắm, do đó với tỷ lệ này thì cũng không kích thích được các nhà đầu tư nước ngoài. Trước đây, Thủ tướng có thể cho phép bất kỳ tổ chức nào vượt quy định 15% lên 20%.
Nhưng trong dự thảo mới, thay vì có thể quyết định từng trường hợp, thì Thủ tướng chỉ quyết định cho những ngân hàng yếu kém, với mục đích là tái cấu trúc ngân hàng. Theo tôi, quy định mới hình như còn chặt chẽ hơn quy định cũ.
Bên cạnh đó, quy định chỉ mở đối với các ngân hàng yếu kém sẽ không giúp cho vấn đề thương hiệu cho cả hai phía: Ngân hàng được mua cổ phiếu và ngân hàng bên ngoài mua cổ phiếu của ngân hàng Việt Nam.
Bởi lẽ một ngân hàng được phép vượt quy định 30% sẽ bị “liệt” vào loại yếu kém thì mới được hưởng ưu đãi. Điều này sẽ khiến cho bản thân các tổ chức trong nước cũng không “mặn mà” với “danh hiệu” này.
Còn với đối tác nước ngoài khi được mua vượt trần quy định sẽ phải mua đúng ngân nào đã được định nghĩa là yếu kém, chính điều này cũng sẽ làm nhà đầu tư nước ngoài không thích, vì sợ ảnh hưởng đến thương hiệu của mình.
Hay nói một cách khác việc “nới room” này chỉ mang tính chất nửa vời!
Nhưng có ý kiến cho rằng, ngân hàng là lĩnh vực nhạy cảm, nếu để nước ngoài chi phối quá nhiều sẽ ảnh hưởng đến an ninh tiền tệ trong nước, quan điểm của ông như thế nào về vấn đề này?
Đây là sự lo lắng tự nhiên, vì họ quan tâm đến sự yếu kém của các ngân hàng trong nước, nếu để nước ngoài thâu tóm thì cả hệ thống ngân hàng của Việt Nam sẽ bị khuynh đảo. Nhưng sự lo lắng này không có cơ sở.
Điều này cũng tương tự cách đây khoảng 20 năm, khi Việt Nam chuẩn bị cho một số ngân hàng nước ngoài vào hoạt động, lúc đó đã có rất nhiều người lo sợ rằng dân chúng sẽ đổ xô đến gửi tiền, vay tiền hoặc mở tín dụng thư tại các ngân hàng nước ngoài, họ dồi dào vốn, nhiều kinh nghiệm, ưu đãi khách hàng… Nhưng chuyện đó đã không xảy, cho đến bây giờ ngay cả các ngân hàng nước ngoài 100% vốn của họ đang hoạt động tại Việt Nam thì cũng không làm khuynh đảo hay lũng đoạn được thị trường ngân hàng tại Việt Nam.
Về phía ngân hàng nước ngoài, họ cũng không “hứng thú” với việc đấy. Nhà đầu tư nước ngoài không “dại” gì nắm cổ phần tuyệt đối trong một ngân hàng, họ biết rằng họ cần phải có người Việt Nam, cần có những cổ đông Việt Nam, cần có sự đóng góp của người Việt Nam trong vấn đề điều hành, kinh doanh tại đất nước sở tại. Họ mong muốn đến đây để cùng đồng hành, phát triển thị phần với các ngân hàng Việt Nam.
Nhiều người cho rằng, nới room chỉ diễn ra ở các ngân hàng yếu kém; và cơ hội để sở hữu thêm cổ phần tại các ngân hàng khác vẫn bị “đóng chặt cửa”, bản thân ông thấy ý kiến này như thế nào?
Đúng như vậy. Tại vì với các ngân hàng lành mạnh thì Thủ tướng sẽ không phê duyệt mức quy định 30% và 15% với các tổ chức kinh tế. Chỉ có các ngân hàng yếu kém là được nhận sự ưu đãi này.
Chính điều này khiến nhiều ngân hàng “tránh” không muốn mình bị “đóng dấu” là yếu kém để được giúp đỡ. Vậy nên chăng để Thủ tướng quyết định trong từng trường hợp, chứ không chỉ áp dụng cho những ngân hàng yếu kém.
Theo tôi, “ý đồ” thì tốt nhưng chính văn bản này lại tạo ra rất nhiều bức xúc trong giới ngân hàng.
Đề xuất của ông đối với lĩnh vực này nên cụ thể và lịch trình thế nào?
Tỷ lệ này nếu tăng lên thì mới kích thích các nhà đầu tư nước ngoài. Ví dụ, hiện tại đang ở mức 30% và khoảng 8 năm nữa (2020) sẽ tăng lên đến 100% theo cam kết của WTO. Theo quan điểm của tôi, ngay bây giờ có thể tăng lên 40% chia ra với khoảng các từ 2 – 3 năm/lần. Chẳng hạn như từ 40% - 49% - 75% - 100%.
Xin cảm ơn ông!
Theo Khánh Linh
Cafef.vn
