Theo ông Đậu Anh Tuấn, những quy định mới của các luật dù có tiến bộ, có cởi mở đến đâu nhưng luật không đi vào cuộc sống được thì có thể bị tác động ngược. Niềm tin của cộng đồng DN, chất xúc tác tạo động lực cho nền kinh tế phát triển mà lung lay là điều rất đáng phải quan tâm.
– Hiện nay có tình trạng, Luật DN và Luật Đầu tư còn chưa có hiệu lực thì đã có những dự thảo Luật đang được bàn thảo tiếp tục đẻ thêm những ngành nghề kinh doanh có điều kiện mới, thưa ông?
Luật DN, Luật Đầu tư cũng chỉ là một đạo luật. Trong một năm Quốc hội có thể ban hành mấy chục đạo luật. Ví dụ như năm vừa qua đã có 29 đạo luật được Quốc hội thông qua, cùng với đó là cả trăm nghị định hướng dẫn. Như vậy, thách thức đầu tiên là cơ chế giám sát việc các luật mới, nghị định mới ban hành có đúng tinh thần của Luật Đầu tư và Luật DN không?
Thực tế, việc xây dựng các luật, nghị định và thông tư thuộc lĩnh vực nào thường do Bộ, ngành đó chủ trì soạn thảo. Do đó, ý chí bảo vệ quyền lợi nhà quản lý của các bộ thường được thể hiện rất nhiều trong các văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) mà họ xây dựng. Tất nhiên, họ thường biện minh rằng, chúng tôi có ban hành điều kiện kinh doanh (ĐKKD) đâu. Nhưng để được đầu tư, kinh doanh thì DN vẫn có thể cần tới sự chấp thuận của cơ quan quản lý. Đây chính là những điều kiện kinh doanh “trá hình”. Rõ ràng bằng cách này hay cách khác những ĐKKD “trá hình” đang làm giảm đi sự tiến bộ mà chúng ta cổ vũ.
– Đứng ở góc độ lợi ích, sự cở mở của các quy định mới thực chất lại kìm hãm sự phát triển của DN, thưa ông?
Việc đặt ra ĐKKD thì dễ cho cơ quan quản lý. Tuy nhiên, phí tổn để thực thi hoặc những thiệt hại cho người dân và DN từ việc thực hiện những ĐKKD đó chắc chắn thường lớn hơn nhiều lợi ích của nhà quản lý. Nếu các bộ chỉ vì lợi ích quản lý rất nhỏ để dồn trách nhiệm quản lý cho người dân và DN thì sẽ gây tổn thất cho xã hội. Ai sẽ là người đứng ra cần bằng các lợi ích trên?
Các tổ chức quốc tế có uy tín như Ngân hàng Thế giới, hay các tiểu chuẩn của OECD… đã có đánh giá tổng kết về vấn đề này. Theo họ việc cấp phép là giải pháp cuối cùng. Bởi vì, đây là xin – cho, là rào cản gia nhập thị trường làm hạn chế năng lực cạnh tranh của DN, của quốc gia. Các giải pháp khác như công khai thông tin, kiểm tra, giám sát hoạt động… sẽ làm chi phí của xã hội đỡ tốn kém hơn, thúc đẩy nền kinh tế cạnh tranh và phát triển tốt hơn.
Khi các rào cản được dỡ bỏ, DN của các khu vực, các nền kinh tế có cơ hội như nhau thì họ chỉ lo cạnh tranh để nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo thêm sự đa dạng của sản phẩm hay làm tốt chế độ hậu mãi… Người tiêu dùng sẽ được lợi bởi những sản phẩm, dịch vụ có chất lượng ngày càng cao.
Ngược lại, khi có những ĐKKD được đặt ra thì chỉ một nhóm DN đủ điều kiện và họ sẽ đỡ phải chịu áp lực cạnh tranh hơn. Chất lượng sản phẩm dịch vụ cũng chậm được cải thiện hơn. Bên cạnh đó, khi có ĐKKD thì thường đi đôi với cơ chế xin – cho. Điều này cũng dẫn đến nguy cơ của tham nhũng.
Một lo ngại khác là khi chúng ta nói quá nhiều đến cải cách, đổi mới nhưng lai không làm được nhiều thì sẽ ảnh hưởng đến lòng tin của người dân và DN. Người dân và DN giảm sút lòng tin thì họ không dám bỏ vốn ra đầu tư, kinh doanh. Họ giữ tiền, chuyển thành ngoại tệ, vàng… thì rất bất lợi cho nền kinh tế.
– Ông đánh giá thế nào về công tác chuẩn bị cho Luật DN và Luật Đầu tư 2014 đi vào cuộc sống?
Hiện nay chúng ta mới làm được việc là công khai danh mục các ngành nghề cấm và hạn chế kinh doanh. Mặc dù, từ 01/7, danh mục các ĐKKD cũng sẽ phải công khai lên mạng internet. Nhưng trên thực tế công tác rà soát ĐKKD của các bộ vẫn làm chưa tốt. Việc cắt bỏ các ĐKKD không phù hợp, không hợp pháp, không khả thi theo đúng tinh thần của luật vẫn chưa thực hiện một cách bài bản.
Nếu cử để các bộ tự rà soát thì chất lượng sẽ hạn chế. Bởi vì, ĐKKD thường gắn với quyền năng, lợi ích của các bộ. Buộc phải cắt bỏ quyền năng và lợi ích thì đương nhiên là điều rất khó. Mặc dù, việc bãi bỏ các thông tư đã được gia hạn thêm một năm. Nhưng phải thay đổi cách rà soát để hoạt động này thực chất hơn, hiệu quả hơn. Đặc biệt là vấn đề kiểm soát sau khi hoàn tất rà soát. Làm sao không để các ĐKKD có cơ hội được tái lập hoặc đẻ ra thêm ĐKKD mới.
– Việc ban hành các VBQPPL hướng dẫn luật đang quá chậm. Điều này cũng ảnh hưởng lớn đến việc đưa luật vào cuộc sống, thưa ông?
Để giải quyết tận gốc vấn đề này, cách tốt nhất khi xây dựng luật phải làm thật chi tiết. Hạn chế đến mức thấp nhất việc phải ban hành văn bản hướng dẫn. Làm được như vậy không chi giúp luật sớm đi vào cuộc sống mà còn hạn chế việc lồng ghép ý chí lợi ích nhà quản lý của các bộ vào VBQPPL. Bởi vì, quy trình xây dựng luật thường được tham vấn một cách rộng rãi hơn, kỹ lưỡng hơn. Các văn bản hướng dẫn thì thời gian tham vấn thường ngắn hơn, đối tượng tham vấn thường hẹp hơn nên ý chí của ban soạn thảo thường vẫn còn đậm nét.
– Xin cảm ơn ông!
Nới thời hạn để chuyển đổi và bãi bỏ giấy phép con Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư (sửa đổi) có hiệu lực từ 1-7-2015, theo đó chỉ có Pháp lệnh và Nghị định của Chính phủ mới được quy định ngành nghề kinh doanh có điều kiện, còn các bộ và địa phương sẽ không được ban hành các văn bản gây khó cho DN.
Do vậy, để thực hiện yêu cầu này, các bộ, ngành và địa phương sẽ phải chuyển đổi và bãi bỏ 3.299 điều kiện doanh tại 170 quyết định, Thông tư trái với quy định tại 2 luật này.
Tuy nhiên, do số lượng văn bản quá lớn, đặc biệt một số quy định vẫn có thể thực hiện tiếp hoặc một số văn bản cần chuyển thành Nghị định, chúng tôi đã báo cáo Quốc hội cho phép nới thời gian thực hiện thêm một năm (đến 1/7/2016) để các bộ, ngành, địa phương có thời gian chuyển đổi và bãi bỏ.
Giấy phép nào không cần thì phải bỏ ngay, giấy phép nào cần sửa thì phải báo cáo Chính phủ nhanh chóng chuyển đổi sang Nghị định. Do vậy, cần chấm dứt ngay việc soạn thảo ban hành trái thẩm quyền điều kiện kinh doanh, đây là vấn đề xương sống cải thiện môi trường kinh doanh.
Vì vậy, đối tượng thành lập các DN kinh doanh ở những ngành nghề phải đáp ứng các quy định về điều kiện kinh doanh như: giấy phép kinh doanh; giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh; chứng chỉ hành nghề; chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp; xác nhận vốn pháp định; chấp thuận khác của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; các yêu cầu khác mà DN phải thực hiện hoặc phải có mới được quyền kinh doanh ngành nghề đó.
Hiện nay, việc rà soát hệ thống giấy phép con, điều kiện kinh doanh, chưa có một quốc gia nào làm một việc khó như Việt Nam. Bởi trước khi hệ thống và rà soát lại, Việt Nam có tới 51 ngành nghề cấm kinh doanh nhưng đến nay đã rút lại chỉ còn 6 ngành nghề. Rồi việc bãi bỏ 3.299 điều kiện doanh tại 170 quyết định, Thông tư trái với Luật DN đang là quá sức nặng đối với 1 cơ quan như Bộ KH&ĐT.
Chúng tôi sẽ tiếp tục yêu cầu các Bộ, ngành chủ động rà soát lại. Nếu có điều kiện kinh doanh nào không phù hợp sẽ loại bỏ, tuy nhiên cần phải có thời gian…
Lo vấn đề thực thi
Luật DN và Luật Đầu tư 2014 được giới chuyên môn, cũng như cộng đồng DN nhìn nhận là có bước tiến dài với nhiều thay đổi theo hướng tích cực, thông thoáng hơn cho DN, chuyển từ chế độ chọn – cho sang chế độ chọn – bỏ.
Trong đó, nội dung thay đổi lớn nhất của Luật Đầu tư là quy định về cấm đầu tư kinh doanh và kinh doanh có điều kiện. Trước đây, DN chỉ được đầu tư kinh doanh những gì nhà nước cho phép thì nay, ngoài 6 ngành nghề cấm và 267 ngành nghề kinh doanh có điều kiện, DN được tự do đầu tư kinh doanh những ngành nghề khác mà luật không cấm. Quy trình thủ tục đầu tư cũng thay đổi theo hướng thuận lợi, đơn giản hơn. Kế đến là quy định không ghi vốn pháp định trong giấy đăng ký kinh doanh; cho DN quyền không sử dụng con dấu hoặc sử dụng nhiều hơn 1 con dấu; có thể có nhiều người đại diện cho pháp luật… Ngoài ra, quy định về quản trị DN cũng khác, thoáng hơn, đem lại quyền tự chủ cao cho DN, giúp hoạt động dễ dàng hơn. Có thể nói DN hưởng lợi rất nhiều từ luật mới, như: Được tạo điều kiện cho hoạt động năng động hơn và nâng tính sáng tạo, cạnh tranh trong môi trường kinh tế mới và là tiền đề cho các DN hội nhập quốc tế.
Thế nhưng, chỉ còn vài ngày nữa là Luật DN sửa đổi và Luật Đầu tư sửa đổi năm 2014 có hiệu lực nhưng vẫn còn rất nhiều thắc mắc của các DN liên quan. Trong khi đó, chưa có nghị định hay hướng dẫn nào cho DN. Bản thân DN tôi đã từng gặp rắc rối liên quan đến con dấu. Cụ thể, Cty N.P.T xây dựng các tiêu chuẩn ISO, HACCP, GMP (là những tiêu chuẩn do nước ngoài chứng nhận nên không có đóng dấu trên giấy chứng nhận), khi mang các giấy chứng nhận này đi công chứng thì phòng công chứng không nhận mà hướng dẫn đi lòng vòng qua phòng tư pháp, lãnh sự quán của nước cấp chứng nhận làm một số thủ tục xác nhận…, sau đó mới công chứng được. Chúng tôi mất cả tuần lễ mà vẫn chưa công chứng xong, trong khi hứa với khách hàng là chỉ từ 2-3 ngày sẽ cung cấp cho họ. Do đó, chưa thể hình dung được nếu luật có hiệu lực mà chưa có nghị định hướng dẫn thì sẽ thực hiện thế nào. Và tôi đang lo các ngành sẽ ban hành nhiều giấy phép con, điều kiện, giới hạn… gây khó cho DN. Vì vậy, việc thực thi cần được giám sát chặt chẽ.
Tuy nhiên, cũng phải nhìn nhận rằng, hiện nay, cơ chế giám sát còn có sự tham gia của cộng đồng DN. Và cộng đồng DN cũng cần tự công khai, minh bạch, thực hiện đúng trách nhiệm của mình. Ví dụ như: mỗi DN cần xếp hàng lần lượt để được cấp giấy theo đúng quy định chứ không phải tìm những giải pháp khác để mình được ưu tiêu, cạnh tranh không lành mạnh. Cộng đồng DN cần nhìn nhận ra điều này, nếu không ngay cả cộng đồng DN cũng tạo áp lực trong việc thực hiện và đưa luật đi vào cuộc sống. P.Hà, M.Thanh ghi.