PGS.TS.Trần Đình Thiên, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam nhận định, khu vực doanh nghiệp đang phải chịu gánh nặng chi phí lãi vay và chi phí tài chính ngày một lớn do lãi suất cho vay quá cao. TS.Thiên đưa ra dẫn chứng, so với mặt bằng lãi suất (theo năm) cho vay bình quân tại một số nước trong khu vực như Ấn Độ khoảng 10%, Philippines 7,3%, Thái Lan 6,9%, Trung Quốc 6,6%, Singapore 5,4% thì mức lãi suất cho vay bình quân của Việt Nam 20-22% là quá cao, nghĩa là hơn các đối thủ cạnh tranh từ 2 đến 4 lần.
“Chi phí tài chính cao không những làm suy giảm lợi nhuận mà còn làm giảm khả năng hồi phục của doanh nghiệp. Trong khi đó, cần lưu ý một đặc điểm rất nổi bật của kinh tế Việt Nam là tăng trưởng dựa nhiều vào vốn; nhiều doanh nghiệp hoạt động theo phương châm 'tay không bắt giặc' kinh doanh dựa chủ yếu vào vốn vay ngân hàng. Phương thức hoạt động theo kiểu 'đánh mượn sức' này trở nên rất rủi ro khi nền kinh tế lâm vào tình trạng khó khăn như hiện nay”, TS. Thiên nhấn mạnh.

Trần lãi suất huy động hiện chỉ còn 12% một năm, nhưng lãi suất cho vay vẫn trên dưới 20% một năm. Ảnh ĐTCK.
Giám đốc chi nhánh của một ngân hàng nhận định, trước đây, khi trần lãi suất là 14% một năm, nhiều ngân hàng vẫn phải huy động với lãi suất khoảng 16-17% một năm. Tuy nhiên, phần chênh chỉ vào khoảng 2 - 3% còn có thể “biến báo” được. Nay trần lãi suất đã hạ xuống 12% một năm, nhiều người gửi tiền không chấp nhận mức lãi suất này và vẫn đòi được hưởng như cũ. “Chiều” khách hàng thì khó “hoá” khoản chênh lệch lãi suất lên tới 4-5%, nhưng nếu không thì không huy động được vốn, bởi nhiều ngân hàng khác đang khát vốn sẵn sàng “chào mời” khách hàng với mức lãi suất này.
Dưới góc độ khác, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) vẫn đang hút tiền về thông qua nghiệp vụ thị trường mở (OMO) và phát hành tín phiếu, dù đã “bơm” tiền đồng vào hệ thống thông qua việc mua vào ngoại tệ. Từ đầu năm đến nay, NHNN đã mua vào từ 5-6 tỷ USD, qua đó, đưa vào hệ thống hơn 100.000 tỷ đồng.
Tuy nhiên, do lãi suất trên thị trường mở khoảng 13-14% một năm, cao hơn lãi suất trên thị trường liên ngân hàng (bình quân 11,5% một năm) nên các ngân hàng đã trả tiền vay qua OMO để vay liên ngân hàng số tiền khoảng 60.000 tỷ đồng. Bên cạnh đó, cùng lúc, NHNN cũng phát hành khoảng 45.000 tỷ đồng tín phiếu Kho bạc Nhà nước. Tổng số tiền hút về xấp xỉ lượng mà NHNN đã bơm ra khi mua ngoại tệ.
NHNN đã tái cấp vốn 30.000 tỷ đồng cho một số ngân hàng gặp khó khăn về thanh khoản. Nhưng đây là số tiền chưa thể chuyển thành nguồn có thể cho vay ra nền kinh tế ngay.
Ngoài ra, theo TS. Trần Đình Thiên, vấn đề hiện nay là nhiều doanh nghiệp không có khả năng hấp thụ vốn vay, cho dù các ngân hàng đã cải thiện khả năng cung ứng vốn và lãi suất có xu hướng hạ xuống một cách chắc chắn, tuy còn chậm. Điều này có nghĩa là, khi khó khăn thanh khoản của hệ thống ngân hàng bắt đầu được hóa giải thì dòng lưu chuyển vốn tiếp sức cấp cứu cho các doanh nghiệp vẫn bị cản trở.
Nguyên nhân chính là ở sự “đình trệ” chứ không chỉ còn do lạm phát. Lâm vào tình trạng đình trệ, các doanh nghiệp khó tiêu thụ sản phẩm làm ra, dẫn tới chỗ không trả nợ kịp thời cho các ngân hàng. Nợ xấu của doanh nghiệp tăng nhanh khiến ngân hàng càng không thể cho doanh nghiệp vay thêm. Mặt khác, doanh nghiệp không bán được hàng thì cũng không có nhu cầu vay vốn để sản xuất.
TS. Vũ Đình Ánh, chuyên gia kinh tế thuộc Bộ Tài chính cũng cho rằng, hiện thanh khoản tại một số ngân hàng tốt nhưng thanh khoản của nền kinh tế không tốt. Tiền đang nằm bất động ở đâu đó. Về mặt lý thuyết, bất kỳ một chính sách nào ra đời đều có độ trễ, nghĩa là cần thời gian để triển khai.
Ngoài ra, các ngân hàng công bố những gói tín dụng vài nghìn tỷ đồng thực tế chỉ là hình thức, bởi chẳng ai biết chính xác gói vốn này đã giải ngân được bao nhiêu, cho những doanh nghiệp nào, với mức lãi suất ưu đãi cụ thể bao nhiêu… “Rõ ràng, doanh nghiệp không nên hy vọng vay ngay được tiền và là tiền rẻ”, TS. Ánh nói.
Theo ĐTCK
