
- Nhiều chuyên gia cho rằng, với đề xuất tăng bội chi ngân sách của Chính phủ mà không giải quyết các vấn đề lớn của đầu tư công hiện nay sẽ gây ra lãng phí lớn. Liệu vấn đề này sẽ giải quyết ra sao trong dự Luật Đầu tư công, thưa ông ?
Theo tôi, vấn đề lớn nhất của Luật Đầu tư công hiện nay là làm sao đưa ra các quy định, chế tài để có thể hạn chế và chấm dứt được tình trạng phê duyệt dự án tràn lan. Đặc biệt, phải quy được trách nhiệm đối với những người có thẩm quyền phê duyệt dự án. Bởi từ trước đến nay đã xảy ra rất nhiều trường hợp dự án đầu tư công được phê duyệt nhưng hoạt động không hiệu quả, thậm chí cuối cùng không ai chịu trách nhiệm.
Với dự thảo luật mới này, Bộ KH&ĐT sẽ tập
trung quản lý toàn bộ quá trình sử dụng các nguồn vốn đầu tư công từ ngân sách,
công trái quốc gia, trái phiếu chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương,
nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và vốn vay ưu đãi của các nhà tài
trợ, tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước và các khoản vốn đầu tư khác thuộc ngân sách nhà nước (NSNN), các khoản vốn
vay của ngân sách địa phương để đầu tư xây dựng công trình kết cấu hạ tầng. Điều
này có nghĩa là tất cả các dự án dùng một phần hay toàn bộ vốn ngân sách sẽ chịu
quy định của Luật Đầu tư công theo từng cấp độ dùng vốn.
- Vậy từ trước đến nay các nguồn vốn đầu tư từ ngân sách bị ràng buộc bởi các chế tài nào, thưa ông ?
Các nguồn vốn này trên thực tế đã chịu sự quản
lý và giám sát từ Trung ương đến địa phương, qua nhiều tầng nấc và nhiều luật định,
như Luật NSNN, Luật Đầu tư, Luật Xây dựng...
Nhưng thực tế các quy định thiếu rõ ràng, nên
lỗ hổng thất thoát đầu tư công vì thế cứ lớn dần.
- Vậy các quy định chồng chéo thiếu hiệu quả giữa các luật nói trên sẽ được dự Luật Đầu tư xử lý ra sao, thưa ông ?
Hiện nay thẩm quyền và trình tự thủ tục phê
duyệt các chương trình đầu tư công từ trước đến nay chưa rõ ràng. Chẳng hạn trong quy định của Luật Xây dựng lại không
quy định chi tiết về nội dung, thẩm định và phê duyệt dự án. Rồi Luật Đầu tư,
Luật Xây dựng… các Bộ ngành cứ phê duyệt từ nguồn vốn ngân sách nhưng chưa tính
đến hiệu quả và khả năng thu hồi vốn (với
các dự án đầu tư công là khả năng trả nợ của
vốn ngân sách nhà nước). Để giải quyết mối e ngại lớn nhất hiện nay là việc
phê duyệt tràn lan các dự án đầu tư công, dự luật đang đưa ra các quy định chặt
chẽ từ khâu xác định chủ trương đầu tư.
Theo đó chỉ được phê duyệt dự án khi đã được
các cấp có thẩm quyền phê duyệt chủ trương đầu tư, xác định được nguồn vốn và
khả năng cân đối vốn. Hoặc chỉ được phê duyệt quyết định chủ trương đầu tư các
chương trình, dự án khi không trùng lắp với các chương trình, dự án khác trong
quy hoạch…
- Nhưng theo báo cáo Chính phủ tổng chi ngân sách nhà nước năm 2013 ước đạt 986.300 tỉ đồng, tăng 0,8% so với dự toán. Bội chi ngân sách nhà nước năm 2013 đạt 5,3% GDP. Dư nợ công chiếm 56,2% GDP. Cũng theo Chính phủ, mức dư nợ như vậy vẫn “trong giới hạn an toàn”. Ý kiến ông về vấn đề này ?
Tổng chi ngân sách nhà nước năm 2013 ước đạt 986.300 tỷ đồng, tăng 0,8% so với dự toán. Bội chi ngân sách nhà nước năm 2013 đạt 5,3% GDP. |
Tổng chi ngân sách nhà nước 9 tháng đầu năm ước theo báo cáo của Chính phủ ước gần 685.000 tỉ đồng, bằng 70% dự toán. Năm 2013, tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội theo ước tính của Chính phủ đạt khoảng 29,1% GDP (kế hoạch đề ra là khoảng 30% GDP). Trong đó, vốn đầu tư phát triển từ ngân sách đạt hơn 201.000 tỉ đồng, 57.800 tỉ là vốn trái phiếu Chính phủ, 53.400 tỉ là vốn tín dụng đầu tư Nhà nước. Ngoài ra, vốn đầu tư tự có của DNNN ước đạt 39.800 tỉ đồng; của dân cư và khu vực tư nhân là hơn 407.000 tỉ đồng; còn lại là 241.000 tỉ đồng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Thực ra nới trần bội chi, tức là cho phép tăng chi tiêu công và cũng là biện pháp để đảm bảo kinh tế 2014 tăng trưởng hợp lý khoảng 5,5 - 5,8%. Chúng ta ý thức việc phải bảo đảm an toàn của nợ công, nhưng trong tình thế hiện nay, chính đầu tư công là giải pháp tác động nhanh nhất để kích thích tăng tổng cầu của nền kinh tế, khi mà chính sách tiền tệ đang có tác dụng hạn chế. Một khi nền kinh tế hấp thụ được vốn tốt hơn, có điều kiện để tăng tín dụng thì sẽ giảm đầu tư công, khuyến khích đầu tư tư nhân, cân bằng mức nợ công …
- Xin cảm ơn ông!
Thủ tướng Chính phủ khẳng định: Tiếp tục thực hiện chính sách tài khoá phối hợp hiệu quả với chính sách tiền tệ và các chính sách kinh tế vĩ mô khác bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tăng cường quản lý ngân sách nhà nước, kiểm soát chặt chẽ nợ công, nợ xấu của doanh nghiệp nhà nước. Phấn đấu giữ bội chi ngân sách nhà nước theo kế hoạch. Thực hiện chương trình quản lý nợ trung hạn; kiểm soát chặt chẽ nợ công, nợ chính phủ, nợ nước ngoài quốc gia bảo đảm trong giới hạn an toàn. Đẩy nhanh việc đổi mới cơ chế tài chính đối với lĩnh vực sự nghiệp công theo hướng tăng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các cơ quan, đơn vị. Khẩn trương nghiên cứu, ban hành cơ chế, chính sách thích hợp để từng bước điều chỉnh khung giá dịch vụ công theo cơ chế thị trường đối với các dịch vụ giáo dục, y tế. Về đầu tư phát triển, tăng cường huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực trong và ngoài nước cho đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế, xã hội đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế... Khẩn trương nghiên cứu trình Quốc hội ban hành Luật Đầu tư công, trong đó quy định rõ về phạm vi, nội dung đầu tư công, các nguyên tắc trong đầu tư và phân bổ vốn; kế hoạch đầu tư công trung hạn và hàng năm; trách nhiệm của các cấp trong quản lý đầu tư từ nguồn lực nhà nước; đồng thời phải tiếp tục phát huy những kết quả đã đạt được trong việc thực hiện các giải pháp tăng cường quản lý và sử dụng vốn ngân sách nhà nước và vốn trái phiếu Chính phủ theo tinh thần Chỉ thị số 1792/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ. (Trích Báo cáo Tình hình kinh tế - xã hội năm
2013 |
Mục tiêu 2014
Với nhiều khó khăn thách thức, nhiều khả năng tăng trưởng GDP nước ta năm 2014 chỉ đạt 5,4%, thấp hơn chỉ tiêu Quốc hội giao.
Theo tính toán, tốc độ tăng trưởng bình quân 3 năm 2011-2013 dự kiến chỉ đạt 5,6%/năm, thấp nhất trong 13 năm trở lại đây, thấp xa so với chỉ tiêu theo kế hoạch (6,5-7%).
Những gì đã diễn ra với nền kinh tế Việt Nam trong 3 năm qua và dự báo tình hình sắp tới, chọn mục tiêu nào cho năm 2014 đang là vấn đề đặt ra cho các nhà hoạch định chính sách?
Việc huy động và hiệu quả sử dụng các nguồn lực cho phát triển còn hạn chế do cân đối ngân sách nhà nước sẽ khó khăn hơn, trong khi đầu tư từ các nguồn vốn khác dự báo không tăng nhiều. Lạm phát năm 2014 cũng sẽ đối mặt với nhiều áp lực hơn nếu có biến động mạnh trong điều hành chính sách vĩ mô, nhất là khi điều chỉnh tăng đầu tư công, tăng dư nợ tín dụng, tiền lương, giá điện, than và dịch vụ công.
Tạo việc làm mới, bảo đảm không tăng thất nghiệp cũng là vấn đề nổi lên, liên quan chặt chẽ tới bảo đảm an sinh, phúc lợi xã hội và an ninh, an toàn xã hội.
Báo cáo với Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ dự kiến đặt một số chỉ tiêu cho năm 2014 như sau: tăng trưởng 5,8%, lạm phát khoảng 7%, bội chi 5,3% GDP, tổng nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội chiếm 30% GDP... Mục tiêu tổng quát cho năm tới vẫn là tiếp tục củng cố, ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát.
Tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, phục hồi nhịp độ tăng trưởng gắn với tái cơ cấu nền kinh tế. Nhiều ý kiến cho rằng định hướng chính sách tiếp tục ưu tiên ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát là đúng đắn, các chỉ tiêu Chính phủ đề ra là phù hợp, nhưng việc tăng trưởng chậm lại, DN khó khăn như vừa qua là “cái giá phải trả” trong ngắn hạn để có một nền tảng vĩ mô ổn định, làm tiền đề cho tăng trưởng bền vững trong trung và dài hạn.
Ổn định vĩ mô phải kiên trì, nhất quán và phục hồi tăng trưởng, không thể vội vã, nếu không sẽ đánh mất toàn bộ thành quả đạt được trong 3 năm qua.
Thời gian gần đây cũng có một số ý kiến nhận định nguyên nhân tình trạng trì trệ của nền kinh tế do quá thiên về ổn định vĩ mô, kiềm chế lạm phát trong 3 năm qua và thắt chặt quá mức các nguồn lực cho tăng trưởng. Tăng trưởng chậm lại, doanh nghiệp giải thể, ngừng hoạt động, thu ngân sách khó khăn là kết quả tất yếu, vì tổng cầu bị thu hẹp một cách đột ngột và cơ học.
Tình trạng này nếu tiếp tục duy trì sẽ dẫn đến
bất ổn vĩ mô trong trung hạn. Vì vậy, cần có sự thay đổi định hướng chính sách.
Thí dụ, khi đầu tư tư nhân sụt giảm mạnh phải tăng tỉ trọng đầu tư từ nguồn vốn
nhà nước sớm phục hồi tổng cầu bằng việc gia tăng đầu tư để nền kinh tế tăng trưởng
cao trở lại, khi đầu tư tư nhân phục hồi sẽ giảm đầu tư công. Trong mục tiêu tổng
quát năm 2014 cần nhấn mạnh định hướng phục hồi nhịp độ tăng trưởng kinh tế.
Các luồng ý kiến trên đều có những cơ sở và lý lẽ của riêng mình. Để lựa chọn được
hướng đi chính sách phù hợp cho năm 2014, chắc chắn cần sự thảo luận kỹ càng hơn.
Những năm gần đây, định hướng “kiên định mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô” thường xuyên được nhắc tới, nhưng kết quả trên thực tế vẫn không như mong muốn. Đó là bài học cần được xem xét khi xác định mục tiêu chính sách cho năm 2014.
Theo Hà Phương
Diendandoanhnghiep