Ông Phúc khẳng định: không thể thành lập DNNN tràn lan được mà chủ trương của Quốc hội và Chính phủ trên các Nghị quyết của Đảng là cổ phần hóa giảm thiểu số lượng DNNN và nâng cao chất lượng. Thực hiện chủ trương cổ phần hóa, số lượng DNNN ngày càng giảm nhưng trong 1 số lĩnh vực vẫn cần vai trò của DNNN trong kinh tế NN. Nên như thế nào, và vai trò của DNNN đối với các DN khác ra sao? ví dụ như dẫn dắt đầu tư vào những lĩnh vực hoặc địa bàn mà tư nhân vẫn làm hoặc lợi nhuận không cao, hoặc trong lĩnh vưc về quốc phòng, an ninh biển đảo.
- Theo ông, trong Luật DN sửa đổi cần có chương riêng về DNNN không?
Phải nghiên cứu nhiều ý kiến của đại biểu. Có ý kiến cho rằng “bê” toàn bộ quy định về DNNN sang Luật quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh nhưng cũng phải suy nghĩ vấn đề quản trị, những vấn đề đặc thù về quản trị DN vẫn phải để bên luật DN nhưng không cần thiết phải có chương riêng ví dụ như quy định trong chương về Cty TNHH NN 1 thành viên, khi ta quy định về loại hình Cty này thì có thể có một số điều đặc trù về quản trị DNNN. Hoặc nhiệm kỳ của chủ tịch và thành viên HĐQT, bên DN tư nhân không thể quy định về nhiệm kỳ được, còn bên DNNN thì phải quy định về nhiệm kỳ là đặc thù của quản trị DNNN. Chẳng hạn, mấy ông chủ tịch HĐ thành viên đến tuổi về hưu đấy là đặc thù của DNNN.
Bây giờ đang thảo luận nhưng theo tôi hướng tiếp thu nên như thế, Luật DN là luật về thành lập và quản trị, còn Luật quản lý sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh là luật về đầu tư, cần phân biệt giữa 2 luật.
- Vậy cần xác định việc sử dụng công cụ DNNN trong phát triển theo định hướng Hiến pháp quy định “kinh tế Nhà nước có vai trò chủ đạo”, thưa ông?
Hiểu rõ tính chất, vai trò DNNN trong bối cảnh mới cực kỳ quan trọng nếu không, theo thực tiễn phát triển sẽ bị giáo điều máy móc và chắc chắn quay lại căn bệnh cũ. |
Quan điểm của tôi đã gọi là DNNN thì phải 100%, vốn nhà nước chứ không phải 51% cũng là DNNN mà chi phối phần 49% còn lại. Như vậy không khuyến khích được tư nhân bỏ vốn vào lĩnh vực đó. Do vậy phải thay đổi lại quan niệm. Khi thảo luận, nhiều đại biểu đề nghị chỉ có nhà nước giữ 100% vốn là DNNN còn lại dù 51 % thì là DN có vốn NN, cũng giống như trước đây DN có vốn đầu tư nước ngoài và DN nước ngoài là khác nhau phải định nghĩa lại cho thống nhất.
Hiểu rõ tính chất, vai trò DNNN trong bối cảnh mới cực kỳ quan trọng nếu không, theo thực tiễn phát triển sẽ bị giáo điều máy móc và chắc chắn quay lại căn bệnh cũ.
- Xin cảm ơn ông!
“Bỏ thì thương...”? Một trong những điểm mới của Dự thảo Luật DN (sửa đổi) là dành hẳn một chương về DN nhà nước nhưng phần lớn các ý kiến đại biểu Quốc hội lại cho rằng quy định như vậy có thể dẫn đến sai lệch kết cấu, bản chất và chức năng vốn có của Luật DN là luật chung về thành lập, tổ chức và hoạt động DN. Theo Đại biểu Mai Thị Ánh Tuyết - An Giang: Trong dự thảo Luật DN (sửa đổi) có chương riêng về DN nhà nước quy định cơ bản về vai trò khu vực DN nhà nước, nguyên tắc bảo toàn và phát triển vốn nhà nước trong DN, nguyên tắc quản trị đối với DNNN hoạt động dưới hình thức Cty TNHH MTV. Luật DN quy định về loại hình pháp lý của DN, không phân biệt tính chất sở hữu và thành phần kinh tế. Do đó, thêm một chương về DNNN là thiếu tính thống nhất trong kết cấu bản chất và chức năng vốn của Luật DN. Vì vậy, để nghị Luật DN quy định phần chương DNNN nên xem xét đưa vào quy định tại Luật quản lý và đầu tư vốn nhà nước tại DN. Đồng tình với quan điểm trên Đại biểu Trần Hoàng Ngân - TP HCM cho rằng: trong thời gian qua, hiện nay và trong tương lai, DN khu vực nhà nước vẫn giữ vai trò rất quan trọng, tuy nhiên việc dự thảo Luật DN (sửa đổi) đưa DN nhà nước thành một chương riêng, Chương IV là chưa hợp lý về kết cấu và bản chất của Luật DN. “Theo Khoản 20, Điều 4, về giải thích từ ngữ có ghi: DN nhà nước là DN do nhà nước đại diện sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc giữ quyền chi phối trong các trường hợp quy định tại Khoản 17 điều này. Riêng tính chất đặc thù của DN có vốn nhà nước thì quy định cụ thể trong Luật quản lý vốn nhà nước đầu tư tại DN. Cụ thể, nếu vốn nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ thì lồng ghép vào chương 3 Cty trách nhiệm hữu hạn. Đối với DN mà vốn nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ thì đưa vào chương 5 Cty cổ phần. Thực tế, dự thảo luật cũng đã lồng ghép ở một số điều tại Điều155, 156, 168.”- ông Ngân phân tích. “Bỏ thì thương...”, nhưng rõ ràng với những phân tích thấu đáo của các đại biểu quốc hội thì chắc chắn chương về DN nhà nước cần được xem xét kỹ lưỡng trước khi thông qua. |
Luật DN không tương thích với văn bản hướng dẫn thi hành Báo cáo Động thái DN 6 tháng đầu năm 2014 do VCCI công bố đã cho thấy nhiều vấn đề không chỉ thuộc về bất cập trong Luật DN hiện hành. Kết quả khảo sát đánh giá của DN về tính hiệu quả của một số chính sách, văn bản luật cho thấy những chính sách của Nhà nước cần bổ sung “tính thực tiễn” hơn nữa. Khi đánh giá về Luật DN năm 2005, có 32,7% DN cho rằng vẫn tồn tại sự không tương thích giữa Luật DN và các văn bản hướng dẫn thi hành. 23,2% DN cho rằng Luật chưa bao quát vấn đề mới phát sinh từ thực tiễn để bổ sung vào đối tượng thuộc phạm vi điều chỉnh. Có 20,8% DN cho rằng Luật chưa đủ rõ ràng cụ thể dẫn đến cách hiểu và áp dụng khác nhau trên thực tế, tạo ra sự thiếu nhất quán và công bằng khi áp dụng. 14,5% DN cho rằng Luật chưa hợp lý, không còn phù hợp với thực tiễn hoặc đã chứng tỏ thiếu tính khả thi gây cản trở và làm tăng thêm chi phí tuân thủ đối với các nhà đầu tư. 8,9% DN cho rằng Luật chưa tương thích với các thông lệ quốc tế, chưa phù hợp với yêu cầu và cam kết hội nhập quốc tế. Không những thế, các quy định về chia tách, hợp nhất và sáp nhập trong luật DN bị nhiều DN phản ánh là còn bất cập và gây khó khăn lớn nhất cho DN. Thủ tục giải thể DN cũng vậy. Các quy định về vốn và góp vốn thành lập DN được ít DN đánh giá là còn bất cập nhất. |
Phan Nam thực hiện