Kể cả khi được bán dưới mệnh giá thì sự hấp thụ của thị trường với cổ phần DNNN còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó có tiềm năng của doanh nghiệp. Vấn đề không phải là giá, bán được hay không mà là thông điệp về sự quyết tâm của Nhà nước.
Liên quan đến kế hoạch thoái vốn của Tổng công ty Đầu tư và
kinh doanh vốn nhà nước (SCIC) giai đoạn đến 2015 cũng như một số vấn
đề khác trong lộ trình tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước (DNNN) đặt trong
nhiệm vụ tái cơ cấu nền kinh tế, PV Dân trí đã có cuộc trao đổi riêng với TS Võ Trí Thành - Phó Viện trưởng Viện nghiên cứu và Quản lý Kinh tế trung ương (CIEM).
TS Võ Trí Thành: SCIC vẫn có khả năng để thoái được vốn kịp lộ trình.
Độ ấm của thị trường và sức hấp dẫn của từng doanh nghiệp
Thưa ông, ông đánh giá như thế nào về khả năng để SCIC có thể
thoái vốn đúng lộ trình khỏi 376 doanh nghiệp trước cuối năm 2015? Liệu
rằng điều này có tạo áp lực lên thị trường do lượng cung cổ phiếu lớn và
thị trường có hấp thụ hết hay không?
Việc thoái vốn của SCIC cũng nằm trong lộ trình cải cách DNNN.
Trường hợp thoái vốn của SCIC cần phải hiểu rằng, đây là hoạt động rút
vốn Nhà nước khỏi các doanh nghiệp không cần nắm giữ, hoặc giảm tỉ lệ
nắm giữ của Nhà nước tại các doanh nghiệp này.
Kế hoạch là một chuyện nhưng cũng phải xem thị trường như thế nào. Liệu thị trường có đủ ấm lên để hấp thụ hay không?
Có hai khía cạnh ở đây: Thứ nhất, mục đích của Nhà nước là muốn thoái vốn vậy thì cách thoái vốn như thế nào?
Bây giờ có hai cái nhìn, chọn “không mất vốn”, thu lại cho Nhà nước
được nhiều tiền nhất hay là nhìn dưới góc độ tài sản ấy cần được chuyển
vào tay những người sẽ sử dụng tài sản một cách có hiệu quả hơn cho đất
nước này? - tôi nhấn mạnh là “cho đất nước”.
Tư tưởng hiện nay ngày càng thiên về góc độ thứ hai, chính vì vậy
mới đặt ra phương án cho phép giá bán cổ phần có thể thấp hơn mệnh giá.
Thực tế, khung pháp lý vừa rồi có sửa đổi nhưng chưa được tốt. Tuy vậy, nó cũng là một tín hiệu cho thị trường.
Ở khía cạnh thứ hai, thị trường có muốn hấp thụ hay không? Ta
lại phải xem, thị trường kỳ vọng vào khả năng phục hồi, khả năng ổn
định, kỳ vọng như thế nào vào những điểm sáng của nền kinh tế? Điều này
còn phụ thuộc vào bối cảnh thế giới, bối cảnh trong nước, quá trình cải
cách và khả năng ổn định kinh tế vĩ mô của Việt Nam từ nay đến 2015.
Nhìn chung, Nhà nước vẫn tiếp tục muốn ổn định, cố gắng phục hồi dần nền kinh tế và bắt tay vào tái cấu trúc.
Có thể thấy, vẫn đang còn những khó khăn nhất định và về tổng thể
thì có thể chưa phải là thời điểm nền kinh tế phục hồi nhanh. Tuy nhiên,
bên cạnh đó cũng có những cơ hội liên quan đến hội nhập, đến tái cấu
trúc DNNN… Dòng tiền của cả khu vực trong và ngoài nước trong một chừng
mực nào đó đã thể hiện qua thị trường chứng khoán một vài tháng gần đây
– tất nhiên TTCK cũng có cả khía cạnh đầu cơ.
Ngoài ra, thị trường cũng sẽ nhìn vào từng doanh nghiệp mà SCIC
muốn thoái vốn hoặc bán bớt cổ phần. Các doanh nghiệp đó hoạt động tại
lĩnh vực nào, tình trạng đang ra sao, có tiềm năng không và có hấp dẫn
không?
Với một cách chơi như thế, rất khó để đoán liệu cổ phần của 376
doanh nghiệp mà SCIC thoái vốn có đủ hấp dẫn để thị trường hấp thụ hết
hay không. Cách chơi có thể chấp nhận dưới mệnh giá, nhưng vẫn tùy xem
độ ấm của thị trường và đặc điểm của từng doanh nghiệp như thế nào.
Dưới tất cả góc độ ấy, tôi nghĩ, sẽ vẫn còn khó khăn, còn thách
thức, trắc trở nhưng quan trọng là tín hiệu của nhà nước gắn với câu
chuyện cải cách DNNN, gắn với quyết tâm của Nhà nước. Thông điệp này rất
quan trọng, không chỉ là câu chuyện bán được hết hay không bán được
hết, bán với giá nào mà nó là “Nhà nước sẽ đẩy mạnh cải cách DNNN, thu
hẹp lại phạm vi các doanh nghiệp mà Nhà nước cần”.
Còn trên quan hệ mua bán, tôi nghĩ, khả năng xác suất cao là vẫn có thể thoái được!
Trò chơi tài chính và cổ phần chi phối
Ông nghĩ như thế nào về khái niệm “cổ phần vàng” được nhắc tới hiện nay?
Theo tôi hiểu thì không có khái niệm pháp lý chính thức về “cổ phần
vàng”, trong luật doanh nghiệp chưa đề cập, đây có thể là một trò chơi
điều lệ tại các công ty. Cổ phần vàng tức là có thể tỷ lệ nắm giữ cổ
phần không quá bán, không chiếm đa số nhưng vẫn có quyền chi phối đối
với doanh nghiệp.
Vậy theo ông, chúng ta có nên pháp lý hóa khái niệm đó hay
không? Có thể là một phương án cho những doanh nghiệp mà Nhà nước vẫn
muốn chi phối nhưng không nhất thiết phải nắm phần lớn cổ phần?
Theo tôi ở đây có 2 góc độ. Góc độ đầu tiên là trong một số lĩnh
vực, không nhất thiết phải quá bán vẫn chi phối được, ví dụ, như ngân
hàng.
Có trường hợp, mặc dù nắm giữ một lượng cổ phần chưa được phép chi
phối nhưng các cổ đông vẫn có thể liên kết với nhau để tạo ra một nhóm
cổ đông có sức mạnh chi phối. Trường hợp này có cả khía cạnh tích cực
lẫn rủi ro. Người ta có thể dùng ủy quyền để sở hữu chéo… Bản chất là
một nhóm lợi ích có thể dẫn đến thao túng ở những lĩnh vực nhạy cảm.
Ngoài ra, cũng có trường hợp những cổ đông không lớn nhưng do yếu
tố lịch sử, do yếu tố bí quyết công nghệ, họ vẫn có khả năng chi phối
được doanh nghiệp.
Vấn đề đặt ra là có nên pháp lý hóa toàn bộ khái niệm đó với tất cả
các doanh nghiệp hay chỉ ở một góc độ nào đó thôi. Việc pháp lý hóa đó
phải tính cả khía cạnh tích cực và rủi ro, đặc biệt trong một số lĩnh
vực. Bởi trong trò chơi tài chính, người ta có thể dùng ủy quyền để giấu
đi ông chủ thực đứng đằng sau, bản chất là người chi phối.
Về câu hỏi của bạn liên quan tới DNNN, chỉ nắm ít cổ phần và tỉ lệ
sở hữu nhỏ nhưng vẫn chi phối được doanh nghiệp đó. Có cần thiết phải
như vậy hay không? Đã không cần thì sao lại phải như vậy?
Nếu cần mà vẫn không chiếm đa số thì hàm ý anh muốn gì ở đây? Tại
sao anh lại muốn chi phối đến những ngành đó, những doanh nghiệp đó?
Hiện tại, có những DNNN hoạt động trong một số lĩnh vực rất đặc thù
và do những điều kiện lịch sử để lại nên Nhà nước vẫn phải nắm giữ 100%
vốn, song rất ít. Có những lĩnh vực phải thoái dần nhưng đòi hỏi một
thời gian quá độ để xử lý những vấn đề không chỉ là kinh tế xã hội.
Còn những DNNN đã không cần đến thì sao lại phải nghĩ đến “cổ phần vàng”?
Cuộc chơi M&A: Sợ thâu tóm có thu hút được vốn?
Cũng liên quan đến bán cổ phần, nhưng rộng hơn là bán cổ phần
doanh nghiệp nội, doanh nghiệp niêm yết cho các nhà đầu tư nước ngoài.
Đã có đề xuất nới tối đa “room” ngoại lên 60% tại một doanh nghiệp niêm
yết, nhưng vấn đề là nhiều doanh nghiệp có vốn hóa lớn sẽ không muốn để
xảy ra điều này vì lo ngại thâu tóm. Ông có đánh giá ra sao?
Tôi nghĩ cái gì cũng có hai mặt. Một mặc thuần túy về kinh tế,
trong thị trường, dòng vốn phải đi tìm được nhà đầu tư tốt nhất và nếu
đảm bảo được công bằng, minh bạch để dòng vốn lựa chọn được phương án
tốt nhất, đó gọi là thị trường hoàn hảo.
Thế nhưng, tại một góc độ khác, bài toán đặt ra là làm cách nào để
một doanh nghiệp Việt ngày càng vươn lên, có khả năng hơn nhưng vẫn đảm
bảo giữ được thương hiệu của mình. Đây lại là một trò chơi hai mặt, một
mặt anh cần vốn, cần phối hợp để dòng vốn hiệu quả hơn, mặt khác anh lại
muốn giữ mình, vậy thì anh có tạo được sức hấp hay không? Anh muốn chơi
mà anh cứ sợ thì anh có chơi được không ?
Trước đây quy định 49% là để doanh nghiệp trong nước vẫn chiếm đa
số và nhà đầu tư nước ngoài sẽ không “lũng đoạn” được. Bây giờ xem xét
nâng lên 60%, vì sao lại 60%, tức là gắn với quy định của luật doanh
nghiệp “nếu còn trên 35% thì có quyền phủ quyết”.
Dù sao, nếu có thể nâng trần lên 60% thì dĩ nhiên vẫn hấp dẫn hơn
đối với nhà đầu tư ngoại. Song tôi cũng lưu ý rằng, ngay cả khi mức trần
chỉ 49% thì cũng không phải doanh nhiệp nào cũng đầy “room” cả, vì độ
hấp dẫn không có.
M&A là một trò chơi hết sức bình thường của thị trường để làm
sao nguồn vốn đạt hiệu quả nhất. Còn 49% hay 60%, mức nào là hợp lý thì
hãy để thị trường tự trả lời. Và mục tiêu giữ được bản sắc và để doanh
nghiệp nội có thể vươn lên, cạnh tranh hơn, không phải chỉ riêng doanh
nghiệp Việt đâu, nước nào cũng thế !
Xin cảm ơn Tiến sĩ vì cuộc trò chuyện này!
Theo Bích Diệp
Dân trí