NHNN đã đưa ra con số thị phần tiền gửi 7,5% của các NH Nước ngoài (NHNNg) tại Việt Nam. Con số này dường như không thay đổi trong vòng 10 năm qua và cũng là thị phần tiền gửi của NHNNg thấp nhất của các nước trong khu vực. Ở một số quốc gia khác, cấu trúc thị phần ở các NHNNg thường chiếm từ 40%-50%. Tại Singapore chỉ có 3 NH nội địa, chiếm 60% thị phần và có tới 112 NH ngước ngoài chiếm 40% thị phần còn lại; ở Malaysia và Thái Lan thị phần tiền gửi của các NHNNg khoảng từ 36%-40%; Phillippine và một số nước khác còn số này thậm chí còn cao hơn chút ít. Tỷ lệ này cũng khác nhau ở nhiều nước trên thế giới tùy thuộc vào chính sách mở cửa thị trường tài chính của từng quốc gia. Tại Hunggary thị phần tiền gửi của NHNNg còn chiếm tới 80%; tại Mỹ và Châu Âu con số này ở mức 30%-40%.

Điều này cho thấy ảnh hưởng của các NHNNg trên thị trường tài chính Việt Nam còn rất nhỏ mặc dầu về số lượng thì các NHNNg (bao gồm cả NH 100% vốn và các chi nhánh) chiếm gần một nửa số lượng NH thương mại tại Việt Nam. Điều này cũng cho thấy mặc dầu Việt Nam đã mở cửa thị trường tài chính cho phép các NH thương mại nước ngoài có điều kiện vào thị trường Việt Nam nhưng hệ thống NH thương mại nội địa nói riêng và thị trường tài chính nói chung của Việt Nam phát triển rất nhanh trong vòng 10 năm qua. Tổng tài sản của các NH thương mại đã tăng 22 lần, vốn tự có tăng 33 lần, số lượng các chi nhánh và phòng giao dịch tăng 5 lần. Đây là một tốc độ tăng ngoạn mục khiến cho trong vòng 10 năm qua thị phần cả tiền gửi và cho vay của các NHNNg không thay đổi thậm chí còn giảm đi chút ít.
Mặt khác, các NH thương mại nước ngoài cũng chỉ tập trung cho vay vào các khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (DN FDI) và vốn để cho vay một phần khá lớn được cung cấp từ các NH mẹ, cộng với những hạn chế khác của Việt Nam về huy động vốn bằng tiền đồng đối với các chi nhánh NHNNg cho nên thị phần của các NHNNg khá thấp so với các NH nội địa. Ngoài ra, do cấu trúc và sự phát triển của thị trường tài chính Việt Nam có nhiều rủi ro lớn so với các chuẩn mực quốc tế, hệ thống giám sát yếu nên làm giảm lòng tin của các NHNNg cho vay trên thị trường tín dụng Việt Nam đặc biệt là cho vay các DN Việt Nam. Đây cũng là một trở ngại đáng kể đối với việc mở rộng quy mô và tăng thị phần của các NHNNg.
Cuối cùng, với tốc độ tăng nhanh như đã nói ở trên, thị trường NH trở thành thị trường cạnh tranh khốc liệt nhất không chỉ đối với các NHNNg mà còn cả đối với các NH Việt Nam. Trên thực tế, các NH nội địa có nhiều lợi thế nhất định trong cuộc đấu tranh này do thói quen, văn hóa, lợi thế ngôn ngữ, lợi thế khuyến mại, phát triển khách hàng và kể cả những lợi thế về lao động giá rẻ. Vì vậy, trong tương lai gần, ưu thế của các NH thương mại nội địa vẫn là chủ yếu và giữ vai trò quan trọng. Do đó, khả năng phát triển thị phần nhanh chóng của các NHNNg vẫn tiếp tục khó khăn, tỷ lệ thị phần tiền gửi 7,5% của các NHNN tại Việt Nam có thể vẫn còn được duy trì ít nhất là từ nay đến năm 2015.
Trích nguồn từ Tờ Kinh doanh & tiếp thị
