Theo TS Ngô Trí Long, càng bán vàng miếng cho thị trường là càng tiếp tay cho “vàng hóa”, là đưa một khối lượng lớn vàng vật chất vào nằm bất động trong khối tài sản của người dân.
Ảnh minh họa (nguồn: internet)
PGS.TS. Ngô Trí Long vừa có tham luận về chính sách điều hành thị trường vàng tại Diễn đàn kinh tế mùa Thu 2013.
Theo TS.Long, một
năm qua với việc ban hành NĐ 24/CP cùng với những văn bản pháp quy do
NHNN ban hành về quản lý vàng, thị trường vàng luôn trở thành “điểm
nóng”. Sau hơn 1 năm thực hiện, cơ chế quản lý thị vàng đã cho
thấy nhiều điểm bất ổn. Hoạt động của thị trường vàng trong nước xem ra
vẫn chưa đạt được như kỳ vọng mà các mục tiêu của NĐ 24/CP đề ra, đúng
như các đại biểu QH đã chất vấn Thống đốc tại các phiên họp Quốc hội.
TS.
Ngô Trí Long cho rằng , việc quản lý thị trường vàng đang là một thách
thức cho cơ quan quản lý. Thị trường vàng còn bất ổn, căn nguyên từ cơ
chế chính sách. Chỉ trong thời gian ngắn nhiều quy định quản lý thị
trường vàng đã thay đổi liên tục, theo chiều hướng ngược nhau. Hầu hết
các quy định thay đổi chỉ nhằm giải quyết tình thế hơn là mang tính hệ
thống, ổn định. Căn cứ vào mục tiêu NĐ24/CP đưa ra, chính sách quản lý
thị trường vàng hiện nay còn tồn tại những bất cập.
TS Long đặc biệt quan tâm tới mục tiêu chống vàng hóa của NĐ24. Theo ông, NHNN không nên lạm dụng việc chống “vàng hoá” để bao biện cho việc sử dụng các biện pháp hành chính trong quản lý bằng việc cấm.
Phải coi vàng đúng theo chức năng của nó, là 1 loại tiền tệ đặc biệt,
để tránh tình trạng "vàng hóa" nền kinh tế thì không được xem vàng là
phương tiện thanh toán. Tuy nhiên, thị trường vàng phải được lưu
thông một cách bình thường, khi người dân có nhu cầu bán vàng để lấy
tiền chi tiêu hoặc đầu tư, kinh doanh họ phải thực hiện được một cách dễ
dàng, có như vậy mới có thể huy động được số vàng đang cất trữ trong dân để phục vụ cho nhu cầu vốn của nền kinh tế.
Tại
sao lại như vậy? Theo TS Ngô Trí Long, điều này xuất phát từ thực tế là
nếu Nhà nước ngăn cấm việc trao đổi, mua bán vàng, việc ngăn cấm này
chỉ thực hiện được bề nổi mà thôi, với chức năng vốn có của vàng và với
thể tích gọn nhẹ, nếu ngăn cấm việc mua bán vàng trên thị trường, sẽ dẫn tới tình trạng đưa vàng ra nước ngoài để bán,
điều này có thể gây ra một hậu quả cực kỳ nghiêm trọng là tài sản của
nhân dân được tích trữ dưới dạng vàng theo tập quán truyền thống sẽ chảy
ra nước ngoài.
Hơn nữa khi càng cấm đoán thì nguy cơ giao dịch ngầm, buôn bán vàng trái phép sẽ diễn ra ngày càng phức tạp, tinh vi hơn.
Nếu không cho phép vàng thực hiện theo bản chất, chức năng vốn có của
nó, sẽ càng làm cho quá trình kiểm soát của Nhà nước đối với loại tiền
tệ đặc biệt này trở nên phức tạp và sẽ không tận dụng được những nguồn
lực to lớn trong toàn xã hội, bởi vì nếu như người sở hữu vàng chỉ được
cất giữ ở trong nhà, vàng sẽ bị mất hết các chức năng vốn có của nó khi
đó việc cất giữ vàng chẳng khác nào cất giữ một tài sản vô giá trị. Cho
tới nay việc huy động nguồn lực vàng trong dân để đưa vào phát triển
kinh tế-xã hội vẫn chưa được NHNN triển khai thực hiện.
Việc
NHNN độc quyền thị trường vàng miếng và tăng cường mua vàng của dân và
có phải là một phương sách hữu hiệu để chống vàng hóa? Hiểu một cách
giản đơn là như vậy, vì dân còn ít vàng hơn nên hiện tượng vàng hóa sẽ
phải giảm.
Theo NHNN, 5 tháng sau khi thực hiện
Nghị định 24/CP, các TCTD đã mua lại hơn 60 tấn vàng, tính trung bình
mỗi tháng mua hơn 10 tấn vàng. Tuy nhiên sẽ là sai lầm khi cho rằng như
vậy có nghĩa vàng đã biến thành tiền tương đương khoảng 3 tỷ USD và được
chuyển thành tiền để phục vụ nền kinh tế. Các TCTD mua vàng của
dân để trả lại cho dân khi hết kỳ huy động. Điều này đã thể hiện không
hề có sự chuyển đổi tiền đưa vào phát triển kinh tế. Thực tế,
là các NHTM mua vàng từ dân xuất phát từ nhiều lý do, trong đó có việc
đóng tình trạng “thiếu hụt” trong tài khoản buôn bán vàng của các ngân
hàng này và để phục vụ việc người dân rút vàng đã gửi vào hệ thống ngân
hàng từ trước.
Giả sử là NHNN chỉ đạo
các NHTM hoặc NHNN trực tiếp mua vàng từ dân để chống vàng hóa, thì điều
này nó không giúp gì được cho mục tiêu chống vàng hóa mà chỉ là việc
bơm tiền vào nền kinh tế. Bởi vì, trong điều kiện không cho
nhập khẩu vàng, việc mua vàng từ dân, nó sẽ đẩy giá vàng trong nước lên
cao hơn. Bởi khi cầu tăng, mà cung không thay đổi thì giá tăng, tạo ra
kỳ vọng về giá vàng tiếp tục tăng, vì nguồn cung khan hiếm hơn sau khi
mua mà không có bổ sung.
Một hệ lụy khác có
thể NHNN đã phải tung tiền ra để hỗ trợ các NHTM mua vàng, chưa kể đến
việc NHNN từ đầu năm tới nay liên tục tiếp thanh khoản cho hệ thống ngân
hàng. Chống vàng hóa bằng cách này tạo thêm rủi ro cho đồng VNĐ. Hiện tượng này không có lợi cho việc chống vàng hóa.
Chủ
trương của NHNN là chống “vàng hóa”, là tách vàng khỏi hệ thống tiền tệ
thì việc tổ chức 61 phiên đấu thầu vàng cho đến nay đã bán hơn 60 tấn
vàng quy chuẩn. Điều này cho thấy càng bán vàng miếng cho thị
trường là càng tiếp tay cho “vàng hóa”, là đưa một khối lượng lớn vàng
vật chất vào nằm bất động trong khối tài sản của người dân. Như
vậy là đi ngược lại mục tiêu chống vàng hóa và chuyển vàng dự trữ trong
dân thành VNĐ để phát triển kinh tế không thực hiện được.
Nguyễn Hằng