Tôi là kiều bào Canada, một doanh nhân đã đầu tư về Việt Nam hơn 25 năm qua, chứng kiến sự thay đổi và phát triển từng ngày của Việt Nam. Chính vì thế nên tôi luôn phải kịp thời nắm bắt những biến động về đường lối, chính sách, pháp luật của Việt Nam. Theo tôi, để bảo đảm tính thống nhất, xuyên suốt của các văn kiện, nghị quyết quan trọng, cần phải thể hiện sâu sắc, thực chất hơn những quyết sách mang tính cách mạng, đột phá trong Văn kiện Đại hội Đảng, làm nền tảng cho sự phát triển bền vững.
Văn kiện trình Đại hội Đảng lần thứ XIV khác hẳn những lần trước, bởi chúng ta đang bước vào “kỷ nguyên vươn mình” như Tổng Bí thư Tô Lâm phát biểu.
Việt Nam đã thực sự tiến hành một cuộc cách mạng chưa từng có về sắp xếp, tinh gọn bộ máy nhà nước; sáp nhập, tinh giản một số bộ ngành ở trung ương; thực hiện chính quyền địa phương hai cấp, bỏ cấp huyện, sáp nhập cấp xã, giảm từ 63 tỉnh thành xuống còn 34 tỉnh thành trong quá trình “sắp xếp lại giang sơn”. Thực tế này đòi hỏi cần phải thay đổi cách tiếp cận mới, chính sách mới, rà soát sửa đổi bổ sung các nghị định, thông tư và các văn bản quy phạm pháp luật gây cản trở, chồng chéo đã ban hành để làm mới lại gọn gàng hơn, minh bạch hơn, dễ hiểu hơn cho bà con trong nước và kiều bào ta ở nước ngoài, những doanh nhân, doanh nghiệp tư nhân có vốn đầu tư trên mọi lĩnh vực mà pháp luật cho phép được dễ dàng, thuận lợi nhất có thể.
“BỘ TỨ TRỤ CỘT” – NỀN TẢNG CHIẾN LƯỢC BƯỚC VÀO KỶ NGUYÊN MỚI
Đáp ứng kịp thời với những đòi hỏi cấp thiết của xã hội, của nhân dân, của nhà đầu tư, của các nhà trí thức, khoa học. Bộ Chính trị đã ban hành liên tiếp 4 nghị quyết được xem là “Bộ tứ trụ cột”, bao gồm Nghị quyết số 57 về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, Nghị quyết số 59 về hội nhập quốc tế, Nghị quyết 66 về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới và Nghị quyết số 68 về phát triển kinh tế tư nhân. Bốn nghị quyết quan trọng trên là “kim chỉ nam” định hướng chiến lược cho Việt Nam phát triển trong giai đoạn mới. Đồng thời Bộ Chính trị tiếp tục ban hành thêm các Nghị quyết 70, 71, 72 nhằm tương hỗ cho “Bộ tứ trụ cột” cùng phát triển.
Từ những quyết sách quan trọng trên của Bộ Chính trị, Chính phủ và Quốc hội đã ban hành các nghị quyết gần như văn bản quy phạm pháp luật, hướng dẫn thi hành có hiệu lực ngay để thuận lợi cho triển khai, thực thi thông thoáng, không cần chờ đợi thời gian dài như trước đây. Cá nhân tôi cho rằng cần phải làm sâu sắc và thực chất hơn nữa các nội dung then chốt trong “Bộ tứ trụ cột” trong các Văn kiện trình Đại hội Đảng lần thứ 14:
Thứ nhất tôi đặc biệt quan tâm là nghị quyết 68 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân. Nghị quyết 68 lần nữa khẳng định kinh tế tư nhân là một động quan trọng nhất của nền kinh tế, đóng vai trò then chốt phát triển kinh tế Việt Nam trong giai đoạn mới. Ngay từ năm 1946 khi Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho giới công thương Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định rõ đất nước chúng ta muốn phát triển được phải nhờ vào giới công thương. Năm 2004, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam đã ban hành Quyết định lấy ngày 13/10 hằng năm là Ngày Doanh nhân Việt Nam, khẳng định vị thế doanh nghiệp tư nhân Việt Nam trong sự nghiệp phát triển của dân tộc.
Đất nước trải qua 20 năm phát triển, lực lượng doanh nhân tư nhân ngày càng lớn mạnh, ngày càng thể hiện vai trò quan trọng trong mọi lĩnh vực kinh doanh sản xuất được pháp luật cho phép. Doanh nghiệp tư nhân đã tạo ra hàng triệu công ăn việc làm cho người lao động, đóng góp vô cùng quan trọng vào tổng thu nhập quốc gia (GDP) của cả nước. Doanh nghiệp tư nhân đã không ngừng vươn, khẳng định vị thế và uy tín trên thị trường khu vực và thế giới.
GDP Việt Nam hiện nay đã lọt vào top 30 thế giới, trong đó có sự đóng góp hết sức to lớn của khu vực kinh tế tư nhân trong những năm qua. Cho nên những nội dung cốt lõi trong Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị cần phải được nhấn mạnh, ưu tiên hóa, thực chất hoá trong các chính sách đầu tư công, tiếp cận các nguồn lực về tài chính, đất đai, ưu đãi thuế, tránh phân biệt đối xử với các thành phần kinh tế khác… Nếu làm tốt sẽ thúc đẩy đầu tư tư nhân, tạo đà cho các doanh nghiệp tư nhân trong nước và các doanh nghiệp thuộc sở hữu của bà con kiều bào đầu tư về Việt Nam thuận lợi hơn, thông thoáng hơn khi tiếp cận thuận lợi với các tổ chức tín dụng và tài nguyên do nhà nước quản lý.
Thứ hai Nghị quyết số 57 của Bộ Chính trị ban hành mở ra một chương mới, một chân trời mới cho phát triển khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo của Việt Nam. Nghị quyết số 57 đã trở thành “chìa khoá” mở cánh cửa dẫn dắt các nhà khoa học, các nhà trí thức ở trong nước cũng như ở nước ngoài có dư địa để phát triển, có không gian tư duy, phát huy tài năng và đặc biệt có cơ hội tiếp cận nguồn tài chính từ ngân sách được đầu tư lớn để thực các hiện dự án nghiên cứu và phát triển (R&D).
Muốn cho Việt Nam bước lên tầm cao mới, trở thành nước phát triển có thu nhập cao vào năm 2045 như mục tiêu đề ra, chúng ta phải đẩy mạnh phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, có những phát minh sáng chế, làm chủ “công nghệ lõi” mới xây dựng được tiêu chí “kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh”. Chỉ phát triển về kinh tế đơn thuần dựa vào công nghệ cấp thấp, thâm dụng lao động mà không phát triển về kinh tế công nghệ cao phát triển về bán dẫn, chíp, trí tuệ nhân tạo và dữ liệu lớn thì đất nước không thể cất cánh ...
Tôi đặc biệt quan tâm đến vấn đề xây dựng và khai thác hiệu quả kho dữ liệu lớn (Big Data) phải được xem là tài nguyên then chốt. Quốc gia nào nắm được, làm chủ và khai thác hiệu quả kho dữ liệu khổng lồ trong nền kinh tế số, quốc gia đó sẽ phát triển nhanh mạnh vững chắc nhất. Việt Nam chúng ta điều kiện vô cùng thuận lợi với hàng triệu kiều bào sinh sống trên khắp thế giới với lực lượng hàng ngàn trí thức có trình độ cao, đang định cư ở những đất nước phát triển có công nghệ cao, kinh tế mạnh thực sự là một nguồn lực vô cùng quan trọng.
Chúng ta hoàn toàn có thể kêu gọi, huy động các trí thức, khoa học gia, thương gia trở về Tổ quốc để phục vụ hoặc cộng tác với các viện nghiên cứu trong nước, các tổ chức trong nước cùng phát triển. Theo tinh thần Nghị quyết 57, họ sẽ được tạo điều kiện thuận lợi, chi trả kinh phí tốt hơn và nếu có rủi ro không phải chịu trách nhiệm pháp lý, đây cũng là điều tiên quyết để phát triển về khoa học công nghệ.
Thứ ba Nghị quyết 66 ban hành trong bối cảnh nước ta sắp xếp, tinh gọn bộ máy nhà nước, sáp nhập tỉnh thành, bỏ cấp huyện, thực hiện chính quyền địa phương hai cấp thực sự là một cuộc cách mạng vô cùng lớn, một cuộc cải cách thể chế chưa có tiền lệ để người dân, để doanh nghiệp tiếp cận với cơ quan chính quyền nhanh hơn, tốt hơn, thông thoáng hơn, hiệu lực, hiệu quả hơn. Các điểm nghẽn thể chế kìm hãm sự phát triển cần phải được dỡ bỏ, thay đổi, bổ sung để hoàn thiện theo khu vực và thế giới văn minh hiện đại.
Chúng ta phải cương quyết loại bỏ các điều luật, quy định không còn phù hợp với thực tế, chồng chéo thậm chí đối kháng lẫn nhau trong chính sách điều hành vĩ mô cũng như điều hành vĩ mô của Nhà nước. Bởi doanh nghiệp tư nhân và người dân là những đối tượng chịu tác động lớn nhất, họ thụ hưởng và chịu trách nhiệm thi hành. Tôi đánh giá cao nghị quyết số 66 bởi vì điểm nghẽn của những điểm nghẽn cần phải bị triệt tiêu và huỷ bỏ, nếu không chúng ta không thể phát triển được.
Thứ tư Nghị quyết 59 về đẩy mạnh quan hệ quốc tế, bang giao với các nước trong khu vực và thế giới. Những năm gần đây, Chính phủ đã ký hàng chục các Hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương. Việt Nam cũng đã xây dựng quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với đầy đủ 5 nước thường trực bảo an Liên Hiệp Quốc bao gồm Nga, Mỹ, Trung Quốc, Anh, Pháp và với hàng loạt quốc gia quan trọng như Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Australia, Indonesia, Malaysia…
Việt Nam cũng đã đàm phán, ký kết 17 FTA với các khối và quốc gia quan trọng như CPTPP, RCEP, EVFTA… Thời điểm này Việt Nam đã trở thành địa chỉ đỏ, một địa chỉ mà nhiều như người dân trên thế giới và đa số các quốc gia trên thế giới biết tới. Đẩy mạnh quan hệ hợp tác quốc tế để chúng ta gạn đục khơi trong, có cơ hội thuận lợi tiếp cận với những nền văn minh mới, những phát minh sáng chế mới, những công nghệ mới để trao đổi, tham vấn, hợp tác cùng phát triển..
KIỀU BÀO GÓP SỨC DỰNG XÂY VIỆT NAM HÙNG CƯỜNG
Muốn huy động được các nhà khoa học gia, thương gia tầm cỡ thế giới và các trí thức là người Việt Nam đang định cư ở nước ngoài trở về Tổ quốc chúng ta cần xây dựng được niềm tin mang thương hiệu quốc gia đó chính là “Niềm tin Việt Nam” vang xa và mang chuẩn mực trên thế giới. Lực lượng doanh nhân, trí thức, khoa học gia... cùng hơn 100 triệu người dân Việt Nam ở trong nước và nước ngoài đồng tâm, đồng sức, đồng hành vì một Việt Nam phát triển hùng cường. Đây chính là nguồn tài nguyên quan trọng nhất, là rường cột để đất nước vươn mình trong kỷ nguyên mới.
Đơn cử như cá nhân tôi là kiều bào Canada, tôi đã mở Công ty Canada Home Deco đầu tư về Việt Nam từ những năm 2000 với nhà máy sản xuất chăn, ga, gối, đệm tại thành phố Hải Dương mức vốn đầu tư ban đầu chỉ khoảng triệu USD. Sau đó, tôi đã đầu tư các dự án khác với số vốn đầu tư trực tiếp lên tới hàng chục triệu USD như trường nghề Việt Nam - Canada; Công ty cổ phần công nghệ cao IQLINKS; Công ty cổ phần phát triển và đầu tư Đại Sơn...Tới thời điểm hiện nay tổng vốn đầu tư trực tiếp của tôi và các cổ đông tại Việt Nam đã lên tới 50-60 triệu USD. Điều đó minh chứng rằng môi trường đầu tư tại Việt Nam vô cùng tiến bộ và đã đạt được những thành quả nhất định.
Sau 20 năm thực thi chính sách và sửa đổi bổ sung về luật pháp đến nay chúng ta đã thấy một Việt Nam phát triển tiệm cận các nước trong khu vực và thế giới. Từ những bước đi thăm dò ban đầu như các Luật Đầu tư áp dụng cho người Việt Nam ở nước ngoài và kiều bào nói chung, đến bây giờ đã bình đẳng như những người Việt Nam ở trong nước. Luật Đất đai, Luật Kinh doanh bất động sản, Luật Chứng khoán và các luật khác đã tạo điều kiện cho phép bà con kiều bào được hưởng những quyền lợi mua bán bất động sản và quyền thừa kế đã tạo nguồn lực tốt để bà con yên tâm về Việt Nam làm ăn, sinh sống và đầu tư theo khả năng.
Đặc biệt là chính sách visa xuất nhập cảnh ngày càng thông thoáng đối với kiều bào đã nới rộng thời gian và thủ tục dễ dàng hơn. Tôi hy vọng rằng thời gian tới việc nhập lại quốc tịch Việt Nam và visa nhập cảnh cho kiều bào ở tất cả các quốc gia trên thế giới không bị hạn chế.
Theo tôi, trong thời gian tới, nhà nước cần tiếp tục hỗ trợ cộng đồng doanh nghiệp về hành lang pháp lý để các doanh nhân trong nước, các doanh nhân kiều bào có thể yên tâm cống hiến hết sức mình cho đất nước. Là doanh nhân, doanh nhân kiều bào nên chúng tôi rất cần Chính phủ Việt Nam xây dựng được niềm tin về chính sách và luật pháp ổn định lâu dài, phù hợp với thông lệ quốc tế là vấn đề then chốt.
Bà con kiều bào về Việt Nam đầu tư cũng giống như bà con trong nước đầu tư kinh doanh, sản xuất, cần phải quyết liệt xóa bỏ mọi rào cản vô hình và hữu hình, tạo điểm tựa vững chắc, thực chất, hiệu quả, bền vững cho những người có tâm huyết mang “chất xám và chất xanh” về Việt Nam đầu tư phát triển không còn lo lắng quan ngại...
Mặt khác, việc thu hút nhân tài, nhân sỹ, trí thức, doanh nhân là kiều bào về Việt Nam đầu tư lâu dài cần phải có chính sách cụ thể như tạo điều kiện thuận lợi về nơi ăn, chốn ở, công việc phù hợp với khả năng chuyên môn, chuyên ngành mà họ có sở trường, công việc phải mang lại tiền lương đủ nuôi sống bản thân và gia đình.
Văn kiện trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng với góc nhìn của riêng cá nhân tôi nếu được thể hiện sâu sắc, thực chất các nội dung then chốt trong “bộ tứ trụ cột” chắc chắn sẽ đáp ứng mong mỏi của bà con kiều bào ta đang định cư ở hơn 130 quốc gia và vùng lãnh thổ, với người tài nguyên vô tận là “chất xám và chất xanh” của hơn 6,2 triệu đồng bào.
Doanh nhân Nguyễn Hoài Bắc
Kiều bào Canada, Chủ tịch HĐQT Công ty Cổ phần Đại Sơn, Phó Chủ tịch Hội Doanh nghiệp Canada tại Việt Nam, Uỷ viên Trung ương MTTQ Việt Nam
