Xe hàng, xe cẩu đồng hành cùng khách
Theo Tổng cục Du lịch Việt Nam, 5 tháng đầu năm 2013, số lượng khách
tàu biển đến Việt Nam tăng 51% so với cùng kỳ năm 2012; số lượng tàu
biển quốc tế và tần suất chuyến tàu đến Việt Nam cũng tăng mạnh so với
năm trước.
Nguyên nhân của sự bấp bênh này chủ yếu vẫn do những khó khăn cũ từ
nhiều năm qua. Điều dễ dàng nhận thấy là hiện nay chúng ta đang thiếu
hẳn hệ thống cơ sở vật chất để đón khách du lịch tàu biển. Hầu hết, các
cảng tàu hiện nay chủ yếu dùng để phục vụ vận chuyển hàng hóa, việc đón
khách du lịch ở đây chỉ coi như sự tận dụng, do đó nhiều cảng không đủ
đảm bảo vệ sinh, an toàn cho khách, mặt cảng lồi lõm không có nhà vệ
sinh sạch sẽ, không có nhà chờ cho khách.
Thậm chí tại nhiều cảng lớn xe tải, xe hàng, xe cẩu di chuyển cùng khách trên cảng. Tình trạng không cầu cảng để đón khách, tàu du lịch đành phải neo ở xa, chuyển tải hành khách vào bờ bằng…thuyền cứu sinh của tàu cũng thường xuyên xảy ra trong nhiều năm qua.
Ông Nguyễn Quý Phương – Vụ trưởng Vụ Lữ hành (Tổng cục Du lịch) cũng thừa nhận rằng, nguyên nhân khiến Việt Nam chưa thu hút mạnh mẽ du khách tàu biển đó là do hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật đón khách tàu biển chưa đảm bảo tiêu chuẩn, chưa có cảng hành khách tàu biển chuyên dụng.
Trao đổi về vấn đề này, PGS.TS Phạm Trung Lương, Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu và phát triển Du lịch Việt Nam chia sẻ: “Việt Nam có đường bờ biển dài trên 3.600km, vậy mà không có lấy một cảng biển du lịch nào, đây là điều vô cùng đáng tiếc. Phần lớn các tour (cả nội địa và quốc tế) là du lịch biển và lượng khách quốc tế đến Việt Nam hàng năm vẫn tăng, nếu chúng ta có cảng du lịch riêng sẽ mang lại những lợi ích lớn về mặt kinh tế, đồng thời sẽ cải thiện hình ảnh của du lịch Việt Nam”.
Cảng Hòn Gai là một ví dụ, vì không có cảng tàu nên các tàu khách đến
đều phải neo đậu cách cảng khoảng 500 – 1000 m. Hậu quả một số tàu phải
hủy chuyến hoặc giảm bớt khách vào Việt Nam. Cũng vì chuyển tải mất
nhiều thời gian, chính vì thế lượng thời gian lưu trú cho khách tham
quan tại đất liền rất hạn chế. Đó còn chưa kể tình trạng giành giật
khách của các "taxi dù" xe ôm trước cổng cảng mỗi khi có tàu về.
Có một thực tế xảy ra là mấy năm trở lại đây là tình trạng mua tour
phá giá trên mạng của các doanh nghiệp "lữ hành chui" xảy ra thường
xuyên, gây bất ổn cho thị trường du lịch trong nước nói chung và thị
trường khách tàu biển nói riêng.
Đây là những doanh nghiệp không có chức năng kinh doanh lữ hành quốc
tế, không có giấy chuyển giao nguồn khách làm thiệt hại không nhỏ cho
các doanh nghiệp và các hãng tàu.
Đục nước béo cò
Trong lúc các doanh nghiệp và hãng tàu phải mất rất nhiều công sức cho việc marketing, vận chuyển hành khách, đóng góp cảng phí cùng nhiều loại phí để đưa tàu vào cảng thì các "doanh nghiệp chui" chỉ cần gửi thư điện tử tới khách yêu cầu khách ra ngoài cổng cảng, hoặc hẹn khách đi bộ ra một điểm bên ngoài để "đón lõng" đưa đi tham quan, chèo nài tận thu bằng các chiêu tiếp thị.
Còn nhớ, vài năm về trước tại Quảng Ninh đã xảy ra tình trạng cạnh
tranh thiếu lành mạnh của các doanh nghiệp đón khách tàu biển. Biện pháp
cạnh tranh của các doanh nghiệp lữ hành lúc này là hạ giá và cho nợ,
chính vì thế nhiều công ty lữ hành đã rơi vào tình trạng không đòi được
nợ từ các doanh nghiệp lữ hành Trung Quốc với số tiền lớn điều này đẩy
các doanh nghiệp này tình thế kiện tụng kéo dài.
Có những doanh nghiệp khoán trắng hoạt động kinh doanh lữ hành cho
một số cá nhân. Các cá nhân này lại bán cho hướng dẫn viên. Vì lợi ích
kinh tế, những hướng dẫn này thường xuyên ép khách dẫn tới chất lượng
phục vụ giảm sút mức ăn chỉ còn vài chục ngàn đồng/suất, dù tour giá cao
nhưng khách chủ yếu chỉ được nghỉ tại khách sạn 2 sao trở xuống.
Là nước đứng thứ 27/156 quốc gia trên thế giới có biển và là nước ven biển lớn ở khu vực Đông Nam Á, lại toạ lạc trên tuyến đường giữa hai trung tâm du lịch tàu biển trong khu vực Singapore và Hồng Kông, không thể phủ nhận rằng, Việt Nam đang có nhiều lợi thế để phát triển du lịch tàu biển. Thế nhưng, chưa bao giờ lượng khách du lịch quốc tế đi bằng tàu biển vào Việt Nam chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổng số lượng khách quốc tế vào Việt Nam. Số lượng khách này mới chỉ chiếm tỷ lệ thấp trong tổng số khách quốc tế đến Việt Nam (khoảng 4 đến 5%).
Dân trí