Ông Phan Văn Quý, Ủy viên Ủy ban Pháp luật của Quốc hội.
Khó khăn trong ngành ngân hàng thời gian qua có nhiều lý do, trong đó có lý do về nhân sự là thiếu và yếu. Đây cũng là lý do mà thời gian qua Ngân hàng Nhà nước buộc các ngân hàng phải tăng các biện pháp quản trị và quản lý có hệ thống.
Ông Phan Văn Quý, Ủy viên Ủy ban Pháp luật của Quốc hội (ông từng giữ chức phó chủ tịch HĐQT một ngân hàng), cho rằng từ khi nhiều ngân hàng lâm vào khủng hoảng đến nay, các ngân hàng đang co lại. Chỉ những ngân hàng nào khỏe mới mở rộng. Ngày trước đua nhau mở các chi nhánh, phòng giao dịch thì bây giờ họ co lại để tiết kiệm chi phí.
“Theo logic kinh tế khi mình đang còn ốm yếu thì phải giảm chi, để khỏe lên thì mới mở rộng đầu tư. Tuy nhiên, khi ốm yếu thì phải tăng quản lý bằng cách tăng nhân sự lên”, ông Quý bình luận.
Vậy theo ông, những ngân hàng có hoạt động kinh doanh lỗ từng quý có nguyên nhân từ đâu?
Việc có ngân hàng lỗ từng quý là do nợ xấu đến kỳ mà không được thanh toán thì phải trích lập dự phòng rủi ro. Mặc dù ngân hàng có lãi, có độ chênh lệch vài trăm tỷ, nhưng có hợp đồng đến hạn mà khách hàng không trả được thì phải trích lập dự phòng rủi ro. Như vậy, ngân hàng phải lấy chênh lệch đó bù vào, nếu dương thì có lãi, âm thì lỗ.
Lâu nay ngân hàng cứ báo lãi để giữ chữ tín, nhưng bây giờ thanh tra NHNN làm rất chặt cho nên ngân hàng phải hoạt động minh bạch.
Có ý kiến cho rằng, việc một số ngân hàng bị lỗ từng quý có nguyên nhân không nhỏ từ việc mở rộng lĩnh vực hoạt động nhưng lại không quản trị được, bởi vậy mới tăng thêm đội ngũ quản lý. Ông nghĩ sao về điều này?
Một số ngân hàng có tiềm năng thì vẫn mở rộng lĩnh vực hoạt động được. Còn với những ngân hàng nhỏ thì có thể là họ tăng cường bộ máy quản lý, vì nếu tăng lên thị phần thì chắc là chưa vì họ đang nhỏ và ốm yếu. Họ phải khỏe thì mới tăng thị phần được.
Về mặt logic kinh tế, khi ngân hàng muốn phát triển lên và tăng thị phần thì chỉ ngân hàng khỏe mới làm được điều đó. Còn những ngân hàng yếu thì phải nghĩ để củng cố sức khỏe của mình đã.
Do vậy, khi họ tăng nhân sự lên thì chắc là họ nghĩ tới quản lý. Trước đây bộ máy quản lý của họ yếu chưa đáp ứng được nhu cầu kinh doanh của họ thì họ tăng lên để siết lại quản lý.
Theo ông, vì sao năm 2011 hệ thống ngân hàng lại rơi vào khủng hoảng?
Sở dĩ ngành ngân hàng bị rơi vào khủng hoảng năm 2011 là vì trước đó ngành ngân hàng đưa tín dụng ra thị trường quá cao. Thực tế tín dụng chỉ nên tăng từ 15 - 17% là hợp, nhưng có những năm tín dụng tăng đến 35 - 37%.
Cho nên vốn chảy từ trong ngân hàng ra thị trường quá lớn nhưng không phải vào sản xuất mà phần lớn những dòng vốn ấy lại đổ vào những lĩnh vực nóng sốt như chứng khoán, bất động sản. Khi kinh tế thế giới bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng bắt đầu từ Mỹ sang châu Âu thì ngành tài chính của Việt Nam bị ảnh hưởng.
Cũng vì thế, những vấn đề như một ngân hàng vay của mấy ngân hàng, sở hữu chéo, bệnh tín dụng đi ra quá nhiều, đặc biệt là mấy ông chủ ngân hàng tham vọng quá lớn, ông huy động của dân nhưng rút tiển ra quá dễ lại đem đầu tư vào các dự án bất động sản, chứng khoán… đã bộc lộ.
Các ông chủ ngân hàng ôm các mã chứng khoán có tính tín chấp lợi suất cao và khi khủng hoảng xảy ra thì ông chủ ngân hàng bị lỗ nặng, đặc biệt là những ngân hàng nhỏ.
Tiền là huy động của dân, nhưng khi bị ảnh hưởng thì họ không bị ràng buộc nhiều hoặc họ lách luật nên mới đẩy ngành ngân hàng đến một thời kỳ khủng hoảng nặng nề.
Theo ông, đến nay những vấn đề về sở hữu chéo lũng đoạn đã được giải quyết nhiều chưa?
Tôi thấy ngành ngân hàng đang giải quyết theo hướng này. Tuy nhiên, thời gian qua, chưa có ngân hàng nào bị phá sản theo đúng nghĩa.
Tôi nghĩ, ngân hàng cũng là doanh nghiệp, nếu như làm ăn không ổn, nếu như những ông chủ ngân hàng cứ dùng vốn huy động của dân rồi đem vào đầu tư lĩnh vực rủi ro, gây nợ xấu cho nền kinh tế thì cũng nên cho ngân hàng phá sản. Như vậy, vấn đề này sẽ minh bạch.
Ngành ngân hàng phải dùng để phục vụ cho xã hội chứ không phải phục vụ cho một nhóm người là cổ đông lớn ở trong ngân hàng. Tôi tin là cách đi của ngành ngân hàng đã theo hướng này. Từ cách đi khoa học đó mà giải quyết được nhiều vấn đề, trong đó có việc vốn của doanh nghiệp.
TRẦN GIANG
Theo BizLIVE