
Có rất ít sinh vật đồng nghĩa với từ "chết chóc" hơn loài khủng long. Nhiều loài đã đưa những đặc điểm này lên mức cực đoan, tiến hóa thành một số quái vật ăn thịt hung dữ nhất mà thế giới đã từng và có lẽ sẽ không bao giờ thấy.
Khủng long là một nhóm bò sát thuộc nhánh Dinosauria, xuất hiện lần đầu vào kỷ Tam Điệp khoảng 243 - 233,23 triệu năm trước đây, mặc dù nguồn gốc chính xác và các mốc thời gian trong quá trình tiến hóa của chúng hiện vẫn đang tiếp tục được nghiên cứu.
Khủng long là một nhóm đa dạng từ phân loại sinh học, hình thái đến sinh thái. Theo các bằng chứng hóa thạch, các nhà cổ sinh đã nhận ra 500 chi và hơn 1.000 loài khủng long phi điểu.
Khủng long có mặt ở khắp các châu lục qua những loài hiện còn (chim) cũng như những hóa thạch còn sót lại. Suốt nửa đầu của thế kỷ 20, trước khi chim được xem là khủng long, hầu hết cộng đồng khoa học tin rằng khủng long là động vật chậm chạp và biến nhiệt. Tuy nhiên, hầu hết các nghiên cứu những năm 1970 đã chỉ ra rằng khủng long là động vật hoạt động tích cực với khả năng trao đổi chất cao và thích nghi tốt cho quan hệ xã hội.
Kể từ khi hóa thạch khủng long lần đầu tiên được ghi nhận trong những năm đầu thế kỷ 19, khủng long đã trở thành một phần của văn hóa đại chúng và bộ xương hoặc mô hình hóa thạch là các điểm thu hút khách tham quan ở các viện bảo tàng. Kích thước khổng lồ của một số nhóm khủng long cũng như bản chất có vẻ huyền bí và quái vật đã đảm bảo cho sự xuất hiện của chúng trong những quyển sách cũng như nhiều bộ phim bán chạy nhất như Jurassic Park.
Dưới đây là 10 lời khủng long được xếp hạng từ “nỗi kinh hoàng” đến những loài có khả năng phòng thủ nhưng vẫn cực kỳ nguy hiểm theo đúng nghĩa tên gọi của chúng.

Spinosaurus (nghĩa là "thằn lằn gai") là một chi khủng long spinosaurid sống ở khu vực nay là Bắc Phi vào khoảng niên đại Cenoman đến thượng Turon cuối kỷ Phấn trắng, khoảng 99 đến 93,5 triệu năm trước.

Hóa thạch của chi lần đầu tiên được phát hiện tại Ai Cập vào năm 1912 và được nhà cổ sinh vật học người Đức Ernst Stromer mô tả khoa học vào năm 1915. Mẫu vật gốc của chi bị phá hủy trong Thế chiến thứ 2, song các nhà cổ sinh đã phát hiện thêm nhiều mẫu vật vào đầu thế kỷ 21.
Spinosaurus là loài khủng long cạn đầu tiên được biết là có thể sống dưới nước. Đồng thời, đây cũng là loài khủng long ăn thịt lớn nhất từng tồn tại với cân nặng 20 tấn, chiều cao gần 15m, dài hơn con khủng long bạo chúa lớn nhất từng được phát hiện khoảng 3m.
Spinosaurus có hàm răng sắc nhọn giống hệt cá sấu. Cặp chân sau của chúng ngắn, khỏe, hoạt động như mái chèo và có nhiều điểm tương đồng với cá voi có chi cổ đại. Chi trước rất khỏe với móng vuốt cong và sắc như dao, dùng để đâm sâu hoặc xé rách da thịt con mồi.
Với những đặc điểm của cả khủng long bạo chúa T-Rex, cá sấu và cá voi nên chúng có thể thích nghi được với cuộc sống dưới nước để… săn cá mập.

Là một chi khủng long Carcharodontosauridae ăn thịt sống khoảng 100 - 93 triệu năm trước vào cuối tầng Alba tới đầu tầng Cenoman của kỷ Creta. Carcharodontosaurus dài từ 12 - 13,5m, nặng từ 5 - 15 tấn, cao từ 4 - 4,2m.

Tên Carcharodontosaurus xuất phát từ chi cá mập Carcharodon, ý nói rằng răng của nó sắc nhọn như loài cá mập đó. Bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp - karcharo nghĩa là "sắc nhọn", odonto nghĩa là "răng" và sauros nghĩa là "thằn lằn".
Carcharodontosaurus là một động vật ăn thịt, với bộ hàm khổng lồ và hàm răng dài đến 20cm. Nó có thể là một người “nhặt 'rác'' (nhặt xác của con mồi đã bị ăn thịt bởi loài khác bỏ thừa lại) cũng như một kẻ săn mồi tích cực. Nó có một cái đầu lớn với hơn 60 cái răng sắc nhọn dài 20 cm giống như lưỡi kiếm. Hàm răng này được ''thiết kế'' với mục đích để đâm và xé thịt con mồi, chủ yếu bao gồm những con Paralititan saurepad lớn và một con cự đà có tên là Ouranosaurus.
Cánh tay của loài này hơi ngắn nhưng vẫn dài hơn của T.rex và khá mạnh. Chúng có 3 móng trên mỗi ngón tay, có thể nó dùng để giữ chặt con mồi hơn. Mặc dù có khả năng là loài săn mồi hàng đầu trong khu vực, Carcharodontosaurus có diện tích lãnh thổ rộng lớn, nhưng có khả năng chúng sẽ phải chiến đấu chống lại các đối thủ và những kẻ săn mồi to lớn khác trong khu vực như Spinosaurus và Sarcosuchus.

Carnotaurus là một chi khủng long chân thú (Theropoda) lớn sống ở Nam Mỹ vào cuối kỷ Creta, trong khoảng từ 72 - 69,9 triệu năm trước. Loài duy nhất đã biết là Carnotaurus sastrei.

Tên chi này có nguồn gốc từ tiếng Latin, carno có nghĩa là "thịt" và taurus có nghĩa là "bò". Carnotaurus là một thành viên của họ Abelisauridae, một nhóm khủng long chân thú lớn chiếm phần lớn hệ sinh thái ăn thịt tại vùng đất phía nam lục địa Gondwana vào cuối kỷ Creta.
Carnotaurus là động vật ăn thịt đi bằng 2 chân, kết cấu cơ thể nhẹ, dài 8 - 9m và nặng ít nhất 1,35 tấn. So với các khủng long chân thú khác, Carnotaurus chuyên biệt hóa cao và khác biệt. Nó có sừng dày trên mắt, một đặc điểm không được tìm thấy ở các chi khủng long ăn thịt khác, một cái đầu dẹp cùng một cái cổ khỏe. Carnotaurus có chi trước nhỏ, thoái hóa còn chi sau dài và mảnh.
Những cái sừng đặc biệt và cái cổ đầy cơ bắp có thể được sử dụng để chiến đấu với các đối thủ cùng loài. Thói quen ăn uống của Carnotaurus vẫn chưa rõ ràng: một số nghiên cứu cho thấy con vật này có thể săn lùng con mồi rất lớn như khủng long chân thằn lằn (Sauropoda), trong khi các nghiên cứu khác cho thấy nó săn chủ yếu các động vật tương đối nhỏ.
Carnotaurus đã thích nghi để chạy và có thể là một trong những khủng long chân thú lớn chạy nhanh nhất.

Là một chi khủng long chân thú sống ở Bắc Mỹ vào đầu kỷ Jura, khoảng 193 triệu năm trước và tên có nghĩa là "thằn lằn hai mào".

Với chiều dài khoảng 7m với trọng lượng khoảng 400kg, Dilophosaurus là một trong những loài khủng long ăn thịt có mặt sớm nhất, mặc dù nó nhỏ hơn một số loài khủng long chân thú sau đó. Mảnh mai, có thân hình nhẹ đồng thời loài này có hộp sọ tương đối lớn nhưng tinh tế.
Mõm hẹp và hàm trên có một khoảng trống hoặc kẽ hở bên dưới lỗ mũi. Nó có một cặp mào hình đĩa dọc trên đầu sọ, tương tự như loài đà điểu đầu mào nhưng với 2 đỉnh. Xương hàm dưới mảnh mai và tinh tế ở phía trước nhưng sâu ở phía sau.
Răng dài, cong, mỏng và bị nén ngang. Những cái ở hàm dưới nhỏ hơn nhiều so với hàm trên. Hầu hết các răng đều có răng cưa ở phía trước và sau của chúng. Cổ dài, đốt sống rỗng và rất nhẹ.
Các chi cánh tay rất mạnh mẽ với một xương cánh tay dài và mảnh mai. Bàn tay có 4 ngón: đầu ngón tay ngắn nhưng mạnh mẽ và mang một móng vuốt lớn, 2 ngón tay sau dài và mảnh hơn với móng vuốt nhỏ hơn đồng thời ngón thứ tư là di tích. Xương đùi rất lớn, bàn chân mạnh mẽ, ngón chân mang những móng vuốt lớn.
Dilophosaurus là một loài hoạt động đi bằng 2 chân, có thể đã săn lùng những con vật lớn; nó cũng có thể ăn những con vật và cá nhỏ hơn. Chức năng của các đỉnh mào không rõ; chúng quá yếu để chiến đấu nhưng có thể đã được sử dụng để phô trương, chẳng hạn như nhận dạng loài và lựa chọn bạn tình.
Loài này có thể phát triển nhanh chóng, đạt tốc độ tăng trưởng từ 30 - 35kg/năm vào đầu đời. Mẫu vật gốc có nhiều bệnh lý, bao gồm chấn thương đã lành và dấu hiệu dị thường phát triển. Dilophosaurus được biết đến từ Thành hệ Kayenta, sống bên cạnh những con khủng long như Megapnosaurus và Sarahsaurus.
Dilophosaurus đã xuất hiện trong tiểu thuyết Jurassic Park và bộ phim chuyển thể cùng tên của nó, trong 2 tác phẩm trên, chúng được cho khả năng hư cấu là có thể nhổ nọc độc và xòe 2 cái bờm trên cổ, cũng như được miêu tả là nhỏ hơn con vật trong đời thật.


Utahraptor ("kẻ săn mồi vùng Utah") là một chi khủng long Theropoda.
Hiện chỉ có một loài duy nhất được công nhận, Utahraptor ostrommaysorum, cũng là thành viên có kích thước lớn nhất họ Dromaeosauridae. Mẫu vật hóa thạch có niên đại từ tầng Barremia vào đầu kỷ Creta (126 ± 2,5 triệu năm trước).
Utahraptor là một thành viên của họ Dromaeosauridae, một nhánh của theropod khủng long thường được gọi là "chim ăn thịt". Utahraptor là chi lớn nhất trong họ này và thuộc cùng một nhóm với một số loài khủng long nổi tiếng như Velociraptor, Deinonychus hoặc Dromaeosaurus.
Đây là một trong số các loài chim ăn thịt lớn nhất thời tiền sử với cân nặng lên tới 680kg. Với hàm răng chắc khỏe, móng vuốt sắc nhọn, Utahraptor có thể xé nát con mồi thành từng mảnh.
Vào năm 2018, người ta đề xuất rằng Utahraptor là loài khủng long biểu trưng của tiểu bang Utah, đã được Thượng viện Hoa Kỳ phê chuẩn. Ban đầu, Utahraptor đã thay thế một chi khủng long khác (Allosaurus) thành hóa thạch chính thức của tiểu bang, nhưng đã quyết định rằng Utahraptor sẽ là một biểu tượng khác của bang này.

Tyrannosaurus được lấy từ tiếng Hy Lạp tyrannos nghĩa là "bạo chúa" và sauros nghĩa là "thằn lằn", còn được gọi là Khủng long bạo chúa trong văn hóa đại chúng, là một chi khủng long chân thú sống vào cuối kỷ Phấn Trắng.

Chi này chỉ gồm một loài duy nhất là Tyrannosaurus rex (thường rút gọn là T. rex). Chúng sinh sống ở phía Tây của Bắc Mỹ, khi đó là một lục địa đảo, tên là Laramidia. Hóa thạch của Tyrannosaurus được tìm thấy trong các thành hệ địa chất có niên đại tầng Maastricht, khoảng 67 - 65,5 triệu năm về trước và là một trong những loài khủng long cuối cùng tồn tại trước sự kiện tuyệt chủng Phấn Trắng - Cổ Cận.
Như các loài bạo long chuẩn (Tyrannosauridae) khác, Tyrannosaurus rex là loài ăn thịt đi bằng 2 chân với một hộp sọ lớn và giữ thăng bằng bởi cái đuôi dài, nặng. So với 2 chi sau to khỏe, chi trước của Tyrannosaurus ngắn nhưng đặc biệt mạnh so với kích thước của nó và 2 ngón có móng vuốt.
Mặc dù bị nhiều loài khác vượt qua về kích thước, Tyrannosaurus rex vẫn là “bạo long” chuẩn lớn nhất và một trong số những động vật ăn thịt lớn nhất mọi thời đại. Mẫu vật hoàn chỉnh nhất dài 12,3m, cao 4m tới hông và nặng 6,8 tấn.
Là động vật ăn thịt lớn nhất trong khu vực của nó, Tyrannosaurus rex là một động vật ăn thịt đầu bảng, săn khủng long mỏ vịt, khủng long mặt sừng, giáp long và có thể cả khủng long chân thằn lằn, mặc dù vài nhà khoa học xem loài này ăn xác thối. Việc Tyrannosaurus ăn thịt hay xác thối là một trong những chủ đề gây tranh cãi nhiều nhất trong giới cổ sinh vật học; tuy nhiên, hiện nay hầu hết đều đồng ý rằng Tyrannosaurus rex là loài săn mồi cơ hội, thực hiện cả ăn thịt và xác thối.
Đây là một trong số động vật trên cạn có lực cắn lớn nhất. Hơn 50 mẫu vật Tyrannosaurus rex đã được phát hiện, một vài có bộ xương gần như hoàn chỉnh. Mô mềm và protein đã xuất hiện trong ít nhất một mẫu vật.
Vì là loài khủng long ăn thịt cỡ rất lớn được phát hiện từ sớm, Tyrannosaurus là một trong những loài khủng long nổi tiếng nhất kể từ thế kỷ 20, đã được giới thiệu trong nhiều bộ phim, quảng cáo và tem bưu chính, cũng như nhiều loại phương tiện truyền thông khác.

Là một chi khủng long chân thú carnosauria lớn sống vào kỷ Jura Muộn cách đây 155 - 145 triệu năm. Danh pháp "Allosaurus" nghĩa đen là "thằn lằn dị biệt" bởi đốt sống của loài này khá độc đáo tại thời điểm phát hiện.

Nhà cổ sinh vật học Othniel Charles Marsh là người có công mô tả di tích hóa thạch đầu tiên được công nhận của chi này vào năm 1877. Với vai trò là loài khủng long chân thú đầu tiên được nghiên cứu kỹ càng, Allosaurus từ lâu đã thu hút sự hiếu kì của công chúng bên ngoài ngành cổ sinh.
Allosaurus là chi khủng long ăn thịt lớn đi đứng bằng 2 chân. Hộp sọ của chúng tuy nhẹ nhưng mạnh mẽ. Hàm được trang bị hàng tá chiếc răng sắc nhọn, khi phóng to sẽ thấy có các răng cưa nhỏ men theo đường cạnh răng. Loài A. fragilis có chiều dài trung bình khoảng 8,5m, với chiều dài cực đại ước tính là 9,7m.
Chi sau của loài này dài và khỏe song chi trước gồm 3 ngón tay lại khá nhỏ. Chúng giữ thăng bằng nhờ phần đuôi dài và chắc rất cơ bắp. Allosaurus là loài khủng long cực kỳ khát máu, chúng tấn công bất cứ loài nào thậm chí cả những loài khủng long ăn thịt khác mà không cần có mục đích.

Sarcosuchus (cá sấu ăn thịt) là một chi Crocodylomorpha đã tuyệt chủng và là họ hàng xa của cá sấu, sống cách đây 112 triệu năm.

Loài này sống vào đầu kỷ Creta tại nơi hiện nay là châu Phi và Nam Mỹ và là một trong những chi bò sát dạng cá sấu lớn nhất từng tồn tại. Nó dài gần gấp đôi cá sấu cửa sông hiện đại và nặng từ 3,5 - 4,3 tấn.
Các hóa thạch đầu tiên được phát hiện trong những cuộc nghiên cứu do nhà cổ sinh vật học người Pháp lbert-Félix de Lapparent dẫn đầu, trong sa mạc Sahara, kéo dài từ năm 1946 - 1959. Các hóa thạch gồm những mảnh xương sọ, đốt sống, răng và xương bánh chè. Năm 1964, một hộp sọ gần như hoàn chỉnh được phát hiện tại Niger bởi Hội đồng năng lượng nguyên tử Pháp.
Sarcosuchus là một họ hàng khổng lồ của cá sấu với cá thể lớn tối đa được ước tính dài tới 10 - 11m. Có mõm dài chiếm 75% chiều dài hộp sọ, có 35 răng ở mỗi bên hàm trên và 31 răng ở mỗi bên hàm dưới. Cá thể con có mõm hẹp giống cá sấu Ấn Độ.
Sarcosuchus được xếp vào loại săn cả… khủng long.

Giganotosaurus (thằn lằn khổng lồ phương nam) là một chi khủng long theropoda thuộc họ Carcharodontosauridae sống 97 triệu năm trước vào đầu thời kỳ Cenomania vào cuối kỷ Creta.

Là một trong những chi khủng long ăn thịt lớn nhất, nó lớn hơn Tyrannosaurus rex nhưng nhỏ hơn Spinosaurus. Hoá thạch của loài khủng long này chỉ được tìm thấy ở Argentina.
Hóa thạch Giganotosaurus hoàn chỉnh được Rubén Dario Carolini (một thợ săn hóa thạch nghiệp dư) tìm thấy vào ngày 25/7/1993 ở một mỏ đá tại Patagonia (miền nam Argentina), nơi ngày nay được gọi là thành hệ Candeleros. Phát hiện được báo cáo khoa học trong năm 1994.
Với chiều cao từ 12 - 12,5m, trọng lượng khoảng 6,5 - 13,8 tấn, Giganotosaurus là một trong những loài ăn thịt lớn nhất từng tồn tại trên Trái Đất. Chúng có cái đầu lớn và hàm răng chắc khỏe nên dễ dàng nuốt chửng con mồi cũng như lợi dụng thân hình khổng lồ của mình để cướp con mồi mà những kẻ săn mồi khác đã bắt được.
Loài Giganotosaurus đã bị tuyệt chủng cách đây khoảng 97 triệu năm.

Là một chi khủng long khá nhỏ, được xác định là có trí thông minh vượt trội so với một số loài cùng kích thước, giống “chim” này sống vào thời kỳ Campania của hậu Creta (khoảng 77 triệu năm trước).

Troodon có phạm vi sinh sống rộng với hóa thạch xuất hiện xa về phía bắc tới Alaska, về phía nam tới Wyoming, có thể cả Texas và New Mexico. Hóa thạch đầu tiên được Ferdinand Hayden phát hiện năm 1855, T. formosus là một trong những khủng long đầu tiên được phát hiện ở Bắc Mỹ. Một bộ xương Troodon không hoàn chỉnh đã được tìm thấy với các vết thủng.
Cao khoảng 2,4m, nặng khoảng 50kg, Troodon không có kích thước to lớn nhưng chúng lại là một trong những loài có kích thước não lớn nhất trong họ nhà khủng long. Đây là loài động vật ăn tạp với cấu trúc răng có dạng như lưỡi cưa.
Troodon là một trong những loài khủng long nguy hiểm nhất thời tiền sử. Chúng chạy khá nhanh nhờ đôi chân sau rất dài, mảnh khảnh và săn mồi theo bầy đàn nên khó có con mồi nào có thể chạy thoát.